Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ Tưởng Nguyện Cố Hòa Thượng Thích Giải Quảng tại Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Úc Châu (14/12/2024)

15/12/202419:24(Xem: 693)
Lễ Tưởng Nguyện Cố Hòa Thượng Thích Giải Quảng tại Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Úc Châu (14/12/2024)



ht thich giai quang (03)ht thich giai quang (02)ht thich giai quang (01)

ht thich giai quang (41)

Tiểu Sử

Hòa Thượng THÍCH  GIẢI QUẢNG

( 1944 – 2024 )

 (  Trưởng Môn phong tổ đình Thọ Sơn – Quảng Ngãi.

Khai sơn chùa Quảng Hiệp – chùa Quảng Phước, Đồng Nai )

 

Hòa Thượng Thích Giải Quảng, thế danh Trương Đình Ân, sinh ngày 27 tháng 1 năm 1944 ( nhằm  mồng 3 tháng giêng năm Giáp Thân), tại xã  Bình Yến, huyện Lý Sơn Tỉnh Quảng Ngãi, trong gia đình có tám  Anh Chị Em, Hòa Thượng là con trai Út trong nhà.

Thân phụ là Cụ Ông Trương Hiển, pháp danh Như Tuệ, Cụ Bà là Nguyễn Thị Hãnh, pháp danh Như Nguyện, đồng nguyên quán tại xã Bình Yến, Huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Thuở nhỏ Hoà Thượng đã biểu lộ là một người con vô cùng hiếu thảo, một cậu bé thông minh chăm học, và đặc biệt thường theo Cha Mẹ đến Tổ Đình  Hải Lâm vào mỗi ngày Sóc Vọng. Tổ Đình Hải Lâm do cố đại lão Hoà Thượng Thích Khánh Tín chúng con thường xưng gọi là Sư Ông, khai sơn năm 1928, đây là ngôi Chùa rất gần nhà song thân của Thầy, nhờ cơ duyên đó đã gieo hạt nhân duyên cho Thầy hướng đến đời sống tâm linh cho phương trời cao rộng sau này.

Thế nhưng thật tiếc thương! năm Thầy mới chưa đầy 10 tuổi ( 1954), cụ Ông Thân Sinh của Thầy qua đời, trong nỗi đau buồn của đại gia đình chưa được bao lâu thì sau đó mấy năm Cụ Bà Thân Sinh cũng từ giã cõi đời, Lúc đó Thầy mới được 14 tuổi ( 1958). Đau đớn tột cùng, nỗi thân phận của người con mồ côi trong biển đời mênh mông vô tận.

Cũng trong thời gian này (1958), cơ duyên cố đại lão Hoà Thượng Thích Khánh Tín từ trong Tổ Đình Thọ Sơn ra đảo. Thầy đến đảnh lễ Sư Ông và như cơ duyên nhiều đời được định sẵn, lòng chánh tín xuất gia được khơi dậy, Thầy xin Sư Ông xuất gia, sau đó được sự đồng ý của các Anh Chị trong nhà, Thầy vào Tổ Đình Thọ Sơn tại xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, Tỉnh Quảng Ngãi, phát tâm công quả, lập hạnh tịnh nhân tu học. Thầy thọ Tam Quy Ngũ Giới và được Sư Ông Thích Khánh Tín ban cho pháp danh là Như Nghĩa, do yêu thích pháp danh học Phật nên Thầy dùng pháp danh thay cho thế danh.

Sau 3 năm tinh tấn công quả, tu học vào ngày lễ Vía Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 2 năm Tân Sửu (1961), Thầy chính thức được Sư Ông Thích Khánh Tín thế phát xuất gia. Từ đây, Thầy đã phát tâm tinh tấn dõng mãnh tu học, sớm hôm công quả tu bồi phước đức. Do vậy Thầy được Sư Ông Thích Khánh Tín và quý Sư Bác như Hòa Thượng Thích Giải An, Hòa Thượng Thích Như Hậu, Hòa Thượng Thích Như Thành,v.v.. lúc sinh thời vô cùng thương yêu và tận tâm trực tiếp dạy dỗ theo Thiền lâm quy cũ, nội điển... Cũng trong thời điểm này Thầy đã hoàn tất chương trình tú tài toàn phần tại trường tỉnh. Thời bấy giờ, Thầy là niềm tự hào của người con hải đảo.

Từ năm 1965 đến năm 1969, Ngài được Bổn sư gởi ra ngụ tại chùa Tịnh Quang, quận Liên Chiểu, tu học với Hòa thượng Thích Tịnh Giác, học Phật học tại Học Viện Phổ Đà.

Ngày 1 tháng 8 năm 1969 (PL 2513), Ngài thọ giới sa-di tại giới đàn chùa tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi (nay là chùa Pháp Hóa) do chính Hòa thượng Bổn sư làm đàn đầu truyền giới. Sau khi thọ giới Sa Di Thầy được ban cho pháp tự Giải Quảng. Và điều đặc biệt là Thầy đậu thủ khoa trong kỳ thi sát hạch giới tử.  Với bản tánh thông minh thế học và từng bước thẩm sâu Phật học, nên Thầy rất được chư Tăng Ni  thương mến.

Trong ba ngày 19, 20, 21 tháng 9 năm Quý Sửu ( ngày 14,15,16 tháng 10 năm 1973),  Phật lịch 2017, tại Đại Giới Đàn Phước Huệ, Phật Học Viện Trung Phần, Nha Trang do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức, Hòa Thượng Đàn đầu- Hòa Thượng Thích Phúc Hộ, Yết Ma-a-xà lê Hòa Thượng Thích Giác Tánh, Giáo Thọ A-xà lê Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm. Thầy được đăng đàn thọ cụ túc giới chính thức bước vào hàng ngũ chúng trung tôn, nối pháp đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.

 

Từ năm 1973-1975, Thầy nhập chúng tu học tại tu viện Quảng Hương Già Lam, quận Gò Vấp, Sài Gòn và theo học chương trình cử nhân Phật học tại viện đại học Vạn Hạnh.

Tháng 6 năm 1975, Thầy trở về Tổ Đình Thọ Sơn, Quảng Ngãi, ngày 8 tháng 11 năm 1975 (Mồng 6 tháng 10 năm Ất Mão), Thầy được Sư Ông Thích Khánh Tín bổ nhiệm làm phó trụ trì chùa Hải Lâm tại quê nhà Lý Sơn.

Từ năm 1979- 1981: Do hoàn cảnh đất nước sau chiến tranh, Thầy bị đưa đi kinh tế mới tại vùng núi Thọ An, xã Bình An, huyện Bình Sơn, Tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn trăm bề cơ cực. Thế nhưng, Thầy lại tạo duyên Phật pháp cho rất nhiều người, sáng rẫy chiều nương, đêm đến bên bếp lửa hồng Thầy kể truyện Phật giáo, chia sẻ Phật lý cơ bản cho những người hữu duyên, dạy cho những em nhỏ thất học được biết đọc biết viết.

Năm 1981-1984: Thầy vào lại Quảng Hương Già Lam theo học khóa Phật học Cao Đẳng Chuyên Khoa do Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ chủ trương với sự giảng dạy của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát v.v...

Ngày 2 tháng 4 năm 1984 (tức ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Trí Thủ thị tịch tại Quảng Hương Già Lam. Ngày 8 tháng 5 năm 1984, Thầy  rời Sài gòn về xã Phước Thái, huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai, gần nhà hai người anh ruột (Trương Đình Quý, Trương Đình Trọng), tạo mãi một mảnh đất nhỏ, làm một cốc lá, và sau này Thầy từng bước gây dựng Tịnh Thất Quảng Phước như ngày nay.

Ngày 20 tháng 8 năm năm 1984 ( ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tý), Thầy được một số đạo hữu Phật tử tại ấp 3, xã Tân Hiệp, huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai mời về hướng dẫn tu học, và từ đây ngôi Chùa Quảng Hiệp được hình thành. Lúc đầu chỉ vỏn vẹn mảnh đất nhỏ khoảng chừng 600 mét vuông, với ngôi chánh điện là 16 tấm tôn cũ, vách nền đều bằng đất, mỗi lần mưa gió to thường ướt đẫm, Thầy nghỉ tại phía sau nhà Tổ với chiếc giường nhỏ và cái bàn cũ thô sơ.

Lễ Vía Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 9 năm Giáp Tý ( ngày 13 tháng 10 năm 1984), do thấy nhu cầu bức thiết trong đời sống sinh hoạt thường ngày của Thầy, Thầy  cùng quý Phật tử làm một căn nhà nhỏ bên cạnh bằng cây gỗ đơn sơ, mái lá. Chính căn nhà này trải suốt thời gian 40 năm tròn đã 3 lần chồng từng mái lá lợp lên và lớp tôn cũng gần như hư hoại. Thầy vẫn ở vậy, mặc cho gió nóng nắng mưa, từ những ngày đầu thành lập chùa cho đến khi Thầy viên tịch. Ngôi nhà nhỏ ấy trở thành ngôi phương trượng đậm dấu ấn tâm linh của bậc chân tu qua nhiều thế hệ Tăng Ni và Phật tử khắp nơi.

 

Kể từ năm 1986 đến năm 2015, Thầy chuyên đảm trách bộ môn Hán Ngữ Cổ Đại, và Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Ấn Độ, Trung Hoa cho các trường Cao Trung Phật Học Tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu. Bên cạnh đó, Thầy còn là Giáo Thọ Sư của nhiều chùa, tự viện, hạ trường trong và ngoài tỉnh Đồng Nai, điển hình như Thiền Viện Thường Chiếu, Tu Viện Phật Ân, Tu Viện Phước Hoa, Chùa Phước Hải, Thiền Viện Liễu Đức ( Đồng Nai ),  Chùa Niết Bàn,  chùa Từ Nhãn, Chùa Bát Nhã ( Bà Rịa Vũng Tàu)chùa Quán Thế Âm ( Sài gòn),v.v… Với trí nhớ siêu việt, và  sự uyên thâm Phật pháp, Thầy  đã tận tâm trao truyền đến các thế hệ Tăng Ni hậu học, mà ngày hôm nay nhiều vị đã thành tài, phụng sự đạo pháp và quê hương.

Thầy còn được cung thỉnh vào Hội Đồng Thập Sư của nhiều  Đại giới đàn tỉnh Đồng Nai.

Năm 1993, Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Thầy về chốn tổ Thọ Sơn cư tang. Từ đó hằng năm, mỗi ngày húy nhật Tôn sư, Thầy chưa bao giờ vắng mặt, thậm chí lễ húy nhật của quý Ngài trong môn phong Thọ Sơn Thầy luôn dành thời gian thăm viếng; một điều đặc biệt là Thầy chọn phương tiện di chuyển về quê trên chiếc xe đò bình dị như ngày nào.

Vì tâm huyết với đạo Pháp, vì hạnh nguyện giáo hoá độ tha không ngừng nghỉ; ngày mồng 8 tháng 10 năm Quý Dậu (ngày 21 tháng 11 năm 1993),  chính thức đặt viên đá xây dựng chánh điện chùa Quảng Hiệp làm chỗ cho tứ chúng tu học. Trong những năm tháng xây dựng và kiến tạo, dù trải qua không biết bao nhiêu gian lao vất vả của thời buổi kinh tế khó khăn, nhưng Thầy vẫn cứ mài miệt chắc chiu vun trồng hạnh nguyện. Ngày 7 tháng 1 năm 1996 (nhằm ngày 17 tháng 11 năm Ất Hợi), lễ khánh thành ngôi bảo điện chùa Quảng Hiệp, công trình so với thời điểm hiện tại thì thật sự rất khiêm tốn, nhưng xét trong thời điểm ấy thì thật là một sự cố gắng, tận tâm tận lực của Thầy và tứ chúng. 

Năm 2003, Hòa thượng Thích Giải An viên tịch, Thầy được cung thỉnh làm trưởng môn phong Tổ đình Thọ Sơn, Quảng Ngãi. Thầy đã ân cần ủy cử pháp đệ Thích Như Quang, Thích Giải Cầu thay Thầy chăm sóc chốn Tổ.

 

Năm 2010, chi phái Lâm Tế Chúc Thánh tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu được thành lập, Thầy  được chư tôn đức cung thỉnh đảm nhiệm Phó Ban điều hành thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu.

Từ năm 2012, Thầy là thành viên của Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ cho đến khi viên tịch.

Ngày 19/12/2017, Thầy đến  Úc Châu, thăm viếng một số tự viện của chư tôn đức Tăng Ni, đặc biệt tham dự lễ húy nhật Tổ Sư  Minh Hải Pháp Bảo  do Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Úc Châu tổ chức tại Tu Viện Từ Ân.

Tuy hoàn cảnh tại chùa còn nhiều khó khăn, nhưng Thầy luôn đặt hạnh nguyện tiếp Tăng độ chúng tu học lên hàng đầu. Tính đến nay, hàng đệ tử xuất gia của thầy được hơn 20 vị cả Tăng và Ni, hầu hết đã trưởng thành và hiện đang trụ trì các tự viện trong cũng như ngoài nước; còn đối với hàng Phật Tử tại gia thì trừ những vị tuổi già sức yếu, hay đã qua đời  phần đông vẫn về Chùa sinh hoạt như thường lệ, điều đó cũng đủ nói lên công đức hành hoạt Phật Sự của Thầy cao dày đến ngần nào.

Thầy cũng luôn ươm mầm cho thế hệ tương lai, Gia Đình Phật tử cũng là một Phật sự trọng yếu của đời Thầy. Từng lớp thanh thiếu niên từ nơi gia đình Phật tử Quảng Hiệp đã trưởng thành, có vị xuất gia trở thành Tăng Ni cùng góp phần xây dựng đạo pháp.

Mặc dù Thầy rất bận Phật sự, giáo dục Tăng Ni nhưng Thầy vẫn dành thời gian để biên soạn, phiên dịch: Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa, Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Trung Đẳng Phật Giáo Khoa Thư (phiên dịch)…Đây là những tài liệu quý giá cho các vị giáo thọ tham khảo để giảng dạy ở các trường Phật học.

 

Tròn 40 năm gắn bó với ngôi chùa Quảng Hiệp, với môn nhân đệ tử và đạo hữu Phật tử tỉnh Đồng Nai, Hòa thượng là một bậc thầy mô phạm làm chỗ nương tựa tâm linh cho người con Phật hữu duyên. Suốt cuộc đời, Ngài chủ trương “Tam thường bất túc”, sống hạnh thanh bần, nhẫn nại, khiêm cung, cuộc sống tối mực giản đơn trước cơn xoáy của văn minh vật chất. Đạo phong của Thầy được hình thành mới sự nghiêm trì giới luật, khắc kỷ tự thân, tinh chuyên niệm tu tập nên Ngài luôn tự tại trước phong ba bão tố của thời cuộc.

Sau thời gian ngắn thân mang trọng bệnh, biết thân tứ đại không thể duy trì, ngày 8 tháng 9 năm Giáp Thìn ( ngày 10 tháng 10 năm 2024) , Thầy điềm nhiên giáo huấn với các đệ tử hiện diện về cốt lõi tu hành đặc biệt là đời sống của bậc chân tu giữa xã hội hiện đại, Thầy còn di bút:

Cụ thể:

Không xe hơi nhà lầu

Chẳng ti vi tủ lạnh

Ngày chỉ cần ba bữa

Cơm với canh mà thôi

Thế gian sự như thế

Việc đời có rồi không”

 Sau đó Thầy cho đồ chúng biết trước ngày Thầy về với Phật ( ngày 15 tháng 10 năm Giáp Thìn), giữa sự lo lắng của toàn thể tứ chúng đệ tử của Thầy.

Tối ngày 14 tháng 10 năm Giáp Thìn Thầy vẫn an nhiên, điềm tĩnh, tâm trí sáng suốt nhớ từng học trò và những người thân cận của Thầy.

Hạnh nguyện châu viên, đúng 0 giờ 0 phút  (12 giờ đêm) ngày 15 tháng 11 năm 2024, (0 giờ 0 phút ngày rằm tháng 10 năm Giáp Thìn, Thầy an nhiên thị tịch trụ thế 81 năm, đạo lạp 66 năm, hạ lạp 52 năm.

Thầy viên tịch không chỉ là nỗi mất mát đau thương cho tứ chúng Phật tử chùa Quảng Hiệp, mà Phật giáo mất đi bậc chân tu thạc đức. Đức hạnh của Thầy là điểm sáng muôn đời cho hậu bối noi theo.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhất Thế, Chúc Thánh Pháp Phái, Khai kiến Quảng Hiệp, Quảng Phước Nhị Tự, húy thượng Như hạ Nghĩa, tự Giải Quảng, Trương Công Hòa Thượng Giác Linh Tôn Sư, Thùy Từ Nhã Giám.



Tân Hiệp, ngày 15 tháng 11 năm 2024
Môn Đồ Pháp Quyến phụng soạn




ht thich giai quang (1)ht thich giai quang (2)ht thich giai quang (3)ht thich giai quang (4)ht thich giai quang (5)ht thich giai quang (6)ht thich giai quang (7)ht thich giai quang (8)ht thich giai quang (9)ht thich giai quang (10)ht thich giai quang (11)ht thich giai quang (12)ht thich giai quang (13)ht thich giai quang (14)ht thich giai quang (15)ht thich giai quang (16)ht thich giai quang (17)ht thich giai quang (18)ht thich giai quang (19)ht thich giai quang (20)ht thich giai quang (21)ht thich giai quang (22)ht thich giai quang (23)ht thich giai quang (24)ht thich giai quang (25)ht thich giai quang (26)ht thich giai quang (27)ht thich giai quang (28)ht thich giai quang (29)ht thich giai quang (30)ht thich giai quang (31)ht thich giai quang (32)ht thich giai quang (33)ht thich giai quang (34)ht thich giai quang (35)ht thich giai quang (36)ht thich giai quang (37)ht thich giai quang (38)ht thich giai quang (39)ht thich giai quang (40)ht thich giai quang (41)ht thich giai quang (42)ht thich giai quang (43)ht thich giai quang (44)ht thich giai quang (45)ht thich giai quang (46)ht thich giai quang (47)ht thich giai quang (48)ht thich giai quang (49)ht thich giai quang (50)ht thich giai quang (51)ht thich giai quang (52)ht thich giai quang (53)ht thich giai quang (54)ht thich giai quang (55)ht thich giai quang (56)ht thich giai quang (57)ht thich giai quang (58)ht thich giai quang (59)ht thich giai quang (60)ht thich giai quang (61)ht thich giai quang (62)ht thich giai quang (63)ht thich giai quang (64)ht thich giai quang (65)ht thich giai quang (66)ht thich giai quang (67)ht thich giai quang (68)ht thich giai quang (69)ht thich giai quang (70)ht thich giai quang (71)ht thich giai quang (72)ht thich giai quang (73)ht thich giai quang (74)










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 15466)
Xuất thân trong một gia đình gia giáo có thân phụ là Chánh Tổng nên Hòa Thượng đã sớm hấp thụ Nho học và Tây học từ thuở ấu niên. Vì thế, Hòa Thượng đã thông thạo cả Hán văn lẫn Pháp văn, kết hợp và dung hòa được cả hai truyền thống văn hóa Đông – Tây.
09/04/2013(Xem: 12649)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 9605)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 6992)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 3920)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 6934)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 19219)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 10483)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 5728)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
09/04/2013(Xem: 10584)
Tuyển tập Nhạc Phật Giáo do Nhạc Sĩ Hằng Vang (1933-2021) sáng tác
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]