Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc Đời Phụng Sự Đạo Pháp Trên Lãnh Vực Giáo Dục Của Cố Trưởng Lão Thích Minh Châu

18/09/202418:16(Xem: 1073)
Cuộc Đời Phụng Sự Đạo Pháp Trên Lãnh Vực Giáo Dục Của Cố Trưởng Lão Thích Minh Châu

HT Minh Chau5

Cuộc Đời Phụng Sự Đạo Pháp
Trên Lãnh Vực Giáo Dục
Của Cố Trưởng Lão Thích Minh Châu
Tỳ Kheo Thích Trường Sanh Phụng Soạn



Dẫn nhập: Trong vũ trụ bao la vô bờ bến, từ vô thỉ đến vô chung; với những cơn sóng bạt ngàn giữa lòng đại dương, hay những khe suối ẩn
mình chảy róc rách giữa chốn rừng sâu, hay những cơn đại phong thịnh nộ thổi đi những bảo vật ra tận chốn mù khơi!

Một chúng sanh có nhiều yếu tố nhân duyên hội tụ để rồi tan hợp, hợp tan. Từ dòng nghiệp thức ấy, đã xuất hiện những bông hoa xinh đẹp,
để tô điểm cho cuộc đời này thêm nhiều hương sắc!

Kính bạch quý Ngài, thưa Quý vị: Hôm nay, giờ này tại Khánh Anh Tự, Chúng tôi có nhân duyên từ Nam bán cầu, một đất nước xa xôi, đến
xứ trời Âu để tham dự ngày Giỗ tổ về nguồn, Đại giới đàn Minh Tâm và tán thán công hạnh của cố Trưởng lão Minh Châu, người đã cống hiến
cuộc đời cho Đạo pháp.


A - Thân thế:


Hòa thượng thế danh Đinh Văn Nam, Pháp danh Tâm Trí, Pháp tự Minh Châu, Pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành, tỉnh Quảng Nam; nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An miền Trung nước Việt; Ngài là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng Thống GHPGVN Thống Nhất, Trú trì Tổ đình Tường Vân, Thừa Thiên - Cố đô Huế.

Thân phụ của Ngài là cụ Đinh Văn Chấp, Pháp danh Trừng Tuệ, thân mẫu là bà Lê Thị Đạt, Pháp danh Trừng Tín; gia đình Hòa thượng có 11
người con, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Thân sinh của Hòa thượng đỗ Tiến sĩ Hoàng Giáp năm 21 tuổi ( Quý sửu, 1913, niên
hiệu Duy Tân thứ 7), Hòa thượng ảnh hưởng nền giáo dục với thân phụ của Ngài khi tuổi còn nhỏ, do đó Hòa thượng siêng năng học tập và
phát triển về học vấn rất nhanh.


Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng Cao đẳng Tiểu học Đông Dương; năm 1940, Hòa thượng đỗ bằng Tú tài Toàn phần tại trường Khải Định - Huế
(nay là trường Quốc Học), thời gian này, Ngài được bổ nhiệm làm thư ký tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên, làm việc được một năm tại đây nhìn
thấy không thuận duyên và xin nghỉ việc.

B - Tìm Hiểu Giáo Lý Đạo Phật Và Phát Tâm Xuất Gia

- Tìm Hiểu Giáo Lý Đạo Phật: Năm 1932, Hội An Nam Phật Học ra đời, phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung phát triển. Bác sĩ Tâm
Minh - Lê Đình Thám là một Phật tử được bầu làm Hội trưởng, kiêm chủ bút tạp chí Viên Âm; phong trào học Phật do Bác sĩ tổ chức có
nhiều thành phần trí thức tham gia như: Ngô Điền, Phạm Hữu Bình, Võ Đình Cường…; Hòa thượng cùng người em là Đinh Văn Vinh đến với
phong trào học Phật từ năm 1936, do Bác sĩ Lê Đình Thám giảng dạy và đảm nhiệm chức chánh thư ký của Hội, từ đó Hòa thượng gắn liền
với Hội và phát động mọi tầng lớp thanh niên tham gia học Phật, Hòa thượng là người đi đầu trong các phong trào này.

Trong tư cách là người Phật tử, bên cạnh Hội trưởng Tâm Minh - Lê Đình Thám, Hòa thượng hoạt động một cách tích cực để phát triển
Phật sự của 17 chi hội thuộc Phật giáo miền Trung. Phong trào thanh niên nghiên cứu Đạo Phật, Hòa thượng là người sáng
lập Đoàn Phật học Đức Dục và Gia đình Phật Hóa Phổ (tên cũ tổ chức gia đình Phật tử Việt Nam sau này). Trong cuộc chấn hưng Phật giáo
từ Cố đô Huế đến các tỉnh miền Trung, từ buổi ban đầu Hòa thượng đã có nhiều cống hiến, như: Vận động một số Học viên Phật tử bảo trợ
cho trường Phật Học Báo Quốc - Huế, Tòng Lâm Kim Sơn, trong thời kỳ khó khăn về kinh tế, mà các trường này là nơi đào tạo Tăng tài cho Phật
giáo lúc bấy giờ mãi đến hôm nay, và Ngài tìm mọi cách giúp đỡ quý Thầy vào miền Nam để có nhiều điều kiện tu học.

- Xuất Gia Tu Học:

Thời gian làm việc ở Hội quán, Hòa thượng đã học hỏi và am hiểu giáo lý từ Bác sĩ Lê Đình Thám và quý Tôn đức trong Sơn môn Thừa Thiên - Huế; thời gian này Ngài đã vào ở trong chùa Tường Vân và thực tập nếp sống Thiền môn như chúng điệu ở trong chùa, từ đó Hòa thượng quyết chí xuất gia học đạo.

Năm 1946, Ngài đầu sư với Hòa thượng: thượng Trừng, hạ Thông, tự Chơn thường, hiệu Tịnh Khiết (Đức Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVN Thống Nhất) thuộc Thiền phái liễu Quán tại Chùa tổ Tường Vân, làng Hạ I, xã Thủy Xuân, thành phố Huế,và được Bổn sư cho Pháp danh Tâm Trí; trãi qua những năm tháng hầu Thầy học đạo và chấp lao phục dịch tại chùa tổ Tường Vân cũng như việc của Hội; công phu, công quả của Ngài đã đầy đủ. Vào năm 1949 (Kỷ Sửu), Hòa thượng được Bổn sư cho phép thọ giới cụ túc, tại Giới đàn Hộ Quốc, tổ chức tại chùa Báo Quốc Huế; giới đàn nầy, Hòa thượng Bổn sư của Ngài làm Đàn đầu; Hòa thượng được Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Tam đàn cụ túc, và được Hòa thượng Bổn sư cho Pháp tự Minh Châu, Pháp hiệu Viên
Dung. Sau khi đã nhập vào Tăng đoàn,Hòa thượng sinh hoạt với Hội Phật học Trung phần, chuyên cần giảng dạy Phật pháp khắp các chùa
Hội, hướng dẫn thanh thiếu niên Gia đình Phật tử, viết bài tạp chí Viên Âm, Từ Quang, Liên Hoa…, chủ bút tạp chí Tư tưởng. Năm 1951, khi
Hội thành lập trương Trung học Bồ Đề đầu tiên ở Huế, Hòa thượng được mời giữ chức Hiệu trưởng. Hội nghị thống nhất Phật giáo ba
miền Bắc Trung Nam được tổ chức tại chùa Từ Đàm vào năm 1951, Hòa thượng được cử tham dự đại biểu chính thức.


htminhchau
HT Minh Châu & Sư Phụ, Đức Đệ Nhất Tăng Thống
Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết





C - Xuất Dương Du Học:

Trong quá trình nghiên cứu Kinh Luật Luận Hán tạng. Hòa thượng nhận thấy cách phiên âm các từ ngữ Pãli, Sanskrit có sự sai khác khó hiểu, từ đó Hòa thượng xin phép Bổn sư và Hội Phật học Trung phần cho phép xuất dương du học tại Sri Lanka và Ấn Độ về Kinh Luật Luận Pãli và Sanskrit để sau này về nước phiên dịch ra tiếng Việt để cho mọi tầng lớp hiểu rõ về Tam tạng Thánh giáo.

Vào năm 1952, được sự chấp thuận của Giáo hội và Hòa thượng Bổn sư, Hòa thượng xuất dương du học tại Sri Lanka, học Pãli và Anh Văn
tại Colombo. Năm 1955, Hòa thượng được trường Đại học Sri Lanka tặng bằng Pháp sư (Saddhammacariya), sau đó Hòa thượng sang Ấn
Độ và theo học tại Nava Nalanda Maharihara thuộc Đại học Bihar (Ấn Độ). Năm 1958, Hòa thượng liên tiếp đỗ các văn bằng Cử nhân Pãli và
Anh văn, đặc biệt là đỗ Thủ khoa MA (Cao học) về Pãli và Abhidhamma; khóa học này Sinh viên Ấn Độ và các nước theo học rất đông cùng khóa
với Hòa thượng. Với luận án so sánh tập Pãli Trung Bộ Kinh với tập Trung A Hàm chữ Hán. Tháng 9 năm 1961, Hòa thượng là người Việt
Nam đầu tiên đỗ Tiến sĩ Phật học, văn học Pãli Ấn Độ, đích thân Tổng thống Ấn Độ trao bằng danh dự và khen ngợi Luận văn này. Năm 1962-
1963, Hòa thượng được Đại học Bihar (Ấn Độ) mời ở lại giảng dạy tại đây. Trước khi về nước, Hòa thượng đã viết nhiều tác phẩm bằng tiếng
Anh như: Huyền Trang nhà chiêm bái và Học giả (Hsuan T’sang, The pilgrim and sholar); so sánh tập Pãli Milindapãnha với tập Na Tiên Tỳ
Kheo chữ Hán (Milindapãnha and Na-Hsien Bhikshu Sutu-AComparative Study); Pháp Hiển, nhà chiêm bái khiêm tốn (Fa-Hsien,The Unassuming Pilgrim)…. Năm 1964, Hòa thượng trở về nước tiếp tục trước tác và dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị để cho hàng xuất gia tu học.

D - Thời gian về nước làm Phật Sự.

I. Công việc Hoằng Pháp:

Tháng 4 năm 1964, sau khi trở về nước, Hòa thượng đã đem hết khả năng của mình để làm Phật sự, như: phiên dịch Kinh tạng, mở trường Đại học Vạn Hạnh v.v…, ngõ hầu báo đáp thâm ân Phật Tổ, từ đó Hòa thượng đã được mời giữ chức vụ phó Viện trưởng Viện cao đẳng Phật học Sài Gòn (1964-
1965), đến năm 1965, Viện cao đẳng phật học Sài Gòn được đổi thành Viện Đại học Vạn Hạnh; Hòa thượng đã tiến hành xây dựng
cơ sở mới tại số 222 đường Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sỹ), do Hòa thượng làm Viện trưởng, và Viện mở thêm 5 phân khoa: Phân khoa Phật học: Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Mãn Giác làm khoa trưởng. Phân khoa văn khoa: Hòa thượng Thiên Ân, Đại Đức Nguyên Tánh, Giáo sư Nguyễn Đăng Thục làm khoa trưởng. Phân khoa khoa học - xã hội: Giáo sư Tôn Thất Thiện, Giáo sư Bùi Tường Huân làm khoa trưởng. Phân khoa
giáo dục: Đại Đức Nguyên Hồng làm khoa trưởng. Trung tâm ngoại ngữ: Giáo sư Cẩm Quỳnh làm giám đốc. Năm 1967, Hòa thượng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Tư tưởng.


ht minh chau-3

Sau năm 1975, Hòa thượng trở về cơ sở II ở Phú Nhuận thành lập Phật học Viện Vạn Hạnh, nơi đây Hòa thượng tập trung vào việc phiên dịch toàn bộ Kinh tạng Pãli sang Việt ngữ. Hòa thượng cũng dành nhiều thời gian giảng dạy cho các giới Phật tử, và giảng pháp mỗi buổi sáng chủ nhật hằng tuần cho Tăng Ni Phật tử; các buổi giảng đầu tiên tại chùa Ấn Quang, Xá Lợi; Hòa thượng giảng với quý Ngài Đôn Hậu, Thiện Châu…, từ đó phong trào học Phật,
nghe pháp, chủ nhật hằng tuần được lan rộng nhiều nơi.

II. Công Trình Biên Soạn Và Phiên Dịch Của Hòa Thượng:

Từ khi còn ở quê nhà chưa đi du học tại Sri Lanka và Ấn Độ, còn là một Phật tử, Ngài đã gần gũi với Bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám, học hỏi kinh điển và Phật pháp nơi vị Cư sĩ uyên thâm Phật học; Ngài đã viết nhiều tạp chí Phật giáo và những Phật sự quan trọng của giáo hội.

Suốt mười mấy năm du học nước ngoài, sau khi trở về nước, mặc dù nhiều Phật sự trong nhiều hoàn cảnh, nhưng mục đích chính của Ngài dành nhiều thời gian phiên dịch từ kinh tạng Pãli và trước tác nhiêu tác phẩm có giá trị như sau:

- Dịch Kinh Tạng Pãli:

1. Trường Bộ Kinh (2 tập)
2. Trung Bộ Kinh (3 tập)
3. Tương Ưng Bộ Kinh (5 tập)
4. Tăng Chi Bộ Kinh (5 tập)
5. Tiểu Bộ Kinh, gồm các tập như sau:
a. Pháp cú (kinh lời vàng)
b. Kinh Phật Tự Thuyết
c. Kinh Phật Thuyết Như Vậy
d. Kinh Tập
e. Trưởng Lão Tăng Kệ
f. Trưởng Lão Ni Kệ
g. Bổn Sanh (2 tập)

- Dịch từ Abhidhamma:

- Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhammatthasangaha)
- Sách viết bằng Tiếng Anh:
- Hsuan T,sang, The pilglrim (Huyền Trang, nhà chiêm bái và học
giả (Ni sư Trí Hải dịch ra Việt văn)
- Fa-Hsienr, The Unassuming Pilgrim (Pháp Hiển, nhà chiêm bái
khiêm tốn - Ni sư Trí Hải dịch ra Việt văn)
- Milindapanha and Na-Hsien Bhikshu Sũtra-A Com pảrative
Study (Cư sĩ Nguyên Tâm - Trần Phương Lan dịch ra Việt văn)
- The Chinese Madhyama Ãgama and The Pãli Majjhima Nikãya-
A comparative Study (luận án Tiến sĩ Phật học, Ni sư Trí Hải
dịch ra Việt văn)

- Sách viết bằng tiếng Việt của Hòa thượng:

1. Phật pháp (đồng các tác giả)
2. Đường về xứ Phật (đồng các tác giả)
3. Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật
4. Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (dịch)
5. Sách dạy Pãli (dịch)
6. Trước sự nô lệ của con người
7. Chữ Hiếu trong Đạo Phật (đồng các tác giả)
8. Hành thiền
9. Lịch sử Đức Phật Thich Ca
10. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi
11. Chánh pháp và Hạnh phúc (2001)
12. Đạo đức Phật Giáo và hạnh phúc con người (2002)
13. Những mẫu chuyện đạo (2004)
14. Đức Phật, nhà đại giáo dục (2005)
15. Đức Phật của chúng ta (2005)
16. Tâm từ mở ra, khổ đau khép lại (2006)
17. Những gì Đức Phật đã dạy (2007)

18. Hiểu và hành Chánh pháp (2008)
19. Chiến thắng ác ma (2009)

20. Tóm tắt Kinh Trung Bộ (2010)
21. Dàn ý Kinh Trung Bộ và tóm tắt Kinh Trường Bộ (2011)


III. Xây Dựng Cơ Sở Và Giáo Dục:

Khi trở về nước năm 1964, Hòa thượng Trí Thủ, Nhất Hạnh và Hòa thượng thừa lệnh Giáo hội mượn chùa Pháp Hội mở trường
Cao đẳng Phật học do Hòa thượng Trí Thủ làm Viện trưởng, Hòa thượng được Giáo hội mời làm phó Viện trưởng điều hành. Năm
1965, được sự cho phép của Bộ Giáo dục, trường mở thêm phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn (văn khoa) Hòa thượng giữ
chức Khoa trưởng sau đó mời Hòa thượng Thiên Ân đảm trách, lúc này mượn chùa Xá Lợi làm nơi giảng dạy. Cuối năm 1965 đổi
tên thành Đại học. Hòa thượng được chỉ định giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, kiêm Khoa trưởng Phân khoa
Phật học. Trong năm này, Đại học Vạn Hạnh được dời về và xây dựng cơ sở mới tại số 222 Trương Minh Giảng (nay là đường Lê
Văn Sỹ) và mở thêm các Phân khoa, khoa học xã hội và Giáo dục.

Hòa thượng khoa trưởng các phân khoa này, sau đó Hòa thượng mời các Giáo sư Tôn Thất Thiện, Bùi Tường Huân làm khoa
trưởng và Tiến sỹ Thích Nguyên Hồng làm khoa trưởng Phân khoa Giáo dục và Hòa thượng đã chỉ đạo mở thêm Trung tâm
ngoại ngữ trong khuôn viên Đại học Vạn Hạnh.

Năm 1972, Hội đồng Viện quyết định mua cơ sở ở đường Võ Duy Nguy (nay là đường Nguyễn Kiệm) để mở thêm Phân khoa Khoa
học Ứng dụng. Hòa thượng về đây đảm nhiệm Khoa trưởng. Tại đây, năm 1974, Hòa thượng chủ trì lễ kỷ niệm 10 năm thành lập
Viện Đại học Vạn Hạnh (1964 - 1974), với sự tham dự của chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Giáo sư, trong ban Giáo sư của
Viện và hơn 10 ngàn sinh viên tham dự.

Tại cơ sở này, năm 1984 Hòa thượng đã mở trường Cao cấp Phật học (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Sài Gòn) do Hòa
thượng làm Viện trưởng, Ngài cũng làm Đàn đầu Hòa thượng truyền giới Cụ túc cho 60 Tăng Ni sinh khoá I này.

Năm 1981, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở I được thành lập tại chùa Quán Sứ Hà Nội, Hòa thượng được mời làm Hiệu
trưởng (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội), tại Học viện Phật giáo Việt Nam Sài Gòn, Hòa thượng đã lần lượt tổ chức
tuyển sinh và đào tạo được 5 khóa cử nhân Phật học; các khóa Tăng Ni sinh này đã đáp ứng nhân sự để phục vụ cho Giáo hội.
Ngày 20 tháng 10 năm 1997, Hòa thượng chủ trì lễ khởi công xây dựng cơ sở mới của Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố
Sài Gòn; công trình tiến hành gần 2 năm, đến ngày 23 tháng 4 năm 1999 đã hoàn thành và lễ khánh thành đã được tổ chức
trong năm này.


IV. Nhiếp Hóa Đồ Chúng :

Có rất nhiều Phật sự của Giáo hội như: Giáo dục Tăng Ni, phiên dịch Kinh tạng và trước tác nhiều tác phẩm, nhưng Hòa thượng
vẫn luôn nhớ về cội nguồn nơi mình đã xuất gia học đạo. Vì thế, sau khi Hòa thượng pháp hiệu Vĩnh Thừa (chùa Châu Lâm Huế)
kế vị Đức Đệ nhất Tăng Thống trú trì Tổ Đình Tường Vân viên tịch, Hòa thượng được Giáo hội và toàn thể chư Tôn đức Tăng Ni
thuộc môn phái Tổ đình Tường Vân suy tôn lên ngôi vị Trú trì Tổ đình năm 1984, dưới sự chứng minh của chư Tôn Trưởng lão:
Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Hòa thượng Thích Mật Hiển, Hòa thượng Thiện Thiện Siêu…, trong cương vị Trú trì, Hòa thượng đã
nhiếp hóa đồ chúng, tổ chức giới đàn Sa di phương trượng cho Tăng chúng trong môn phái và chỉ đạo, sửa sang xây dựng một số
công trình khu vực Bảo tháp của các vị Tổ sư và Tháp Bổn sư; tại Thiền viện Vạn Hạnh năm 2001, Hòa thượng đã cho đại trùng tu
ngôi chánh điện và đến tháng 10 năm 2004 thì hoàn tất. Tháng 9 năm 2005, Ngài cho xây dựng ngôi Tăng xá và đến tháng 10 năm
2006 tổ chức lễ khánh thành.


V. Công Tác Đối Ngoại:

Với khả năng ngoại ngữ đã có và kiến thức Phật học, suốt thời gian tu học tại quê nhà và tại Sri Lanka - Ấn Độ, cho nên Hòa
thượng được Giáo hội giao phó công tác đối ngoại như:

- Năm 1965, Hòa thượng viếng thăm và thuyết giảng tại Đại học Kamazzawa, Taísho Nhật Bản.

- Năm 1967, Hòa thượng tham dự Hội thảo Giáo dục tại Đại học Yahe, Hoa Kỳ.
- Tháng 6-1968, Hòa thượng tham dự Đại hội Giáo dục Liên Viện Trưởng Thế giới tại Đại Hàn.
- Cuối năm 1968, Hòa thượng đại diện cho các trường Đại học miền Nam Việt Nam, tham dự Đại hội Giáo dục Quốc tế tại
Mexico.

Hòa thượng từng tham gia rất nhiều Hội nghị quốc tế, đặc biệttrong Đại hội Phật giáo Châu Á vì Hòa bình (ABCP) lần thứ V năm
1982 tại Ulan Bator (Mông Cổ) Hòa thượng đã được bầu giữ chức vụ Ủy viên Ban chấp hành (1982-1985) của Hội và Phó Chủ tịch
của Hội này.

- Tháng 6-1983, Hòa thượng tham dự Hội nghị Hòa bình Thế giới, chống vũ khí hạt nhân tại Praha, Tiệp Khắc.
- Năm 1984, Hòa thượng hướng dẫn Phái đoàn GHPG Việt Nam, tham dự Hội nghị Phật giáo với chủ đề: Đạo Phật và nền văn hóa
dân tộc, tại New Delhi Ấn Độ.
- Năm 1985, Hòa thượng tham dự Hội nghị bàn tròn với chủ đề: Các mối nguy hiểm đối với sự sống thiêng liêng của chúng ta tại
Moscow – Nga.
- Năm 1992, Hòa thượng làm Trưởng phái đoàn tham dự Hội nghị Quốc tế ABCP tại Colombo, Sri Lanka.
- Năm 1991, Hòa thượng làm Trưởng phái đoàn tham dự Hội nghị: Các Tôn giáo vì một đại dương Hòa bình tại Macta Ý.
- Năm 1993, Hòa thượng tham dự Hội nghị Tăng già quốc tế tại Đài Loan.
- Năm 1993, Chủ tịch Trung tâm ABCP Việt Nam, Hòa thượng Chủ tọa Hội nghị Quốc tế giải trừ quân bị tại thủ đô Hà Nội - 1993.
- Năm 1994, Hòa thượng cùng Hòa thượng Thiện Siêu dẫn phái đoàn chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ.
- Năm 1994, Hòa thượng tham dự Hội nghị Tăng già Quốc tế tại Vancouver - Canada.
- Năm 1995, Ngài làm Trưởng phái đoàn Phật giáo Việt Nam thăm viếng và chủ trì cuộc họp hội thảo Phật giáo tại Paris Pháp quốc.
- Tháng 5-1996, Hội đồng Đại học Hoàng Gia Thái Lan đã trân trọng tặng bằng Tiến sĩ danh dự cho Hòa thượng, về công trình
phiên dịch Kinh điển và sự nghiệp Giáo dục của Ngài.


VI. Những Tháng Ngày Cuối Đời:

Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử các giới, Thưa quý liệt vị: Vừa rồi quý Ngài, quý liệt vị lắng nghe chúng tôi trình bày thân
thế đạo nghiệp của cố Trưởng lão Thích Minh Châu qua các tư liệu mà chúng tôi đã sưu tầm, và chúng tôi có một chút duyên
lành được cố Hòa thượng giảng dạy kinh tạng Nikya tại Thiền viện Vạn Hạnh, do đó chúng tôi nhìn thấy sự miệt mài dịch thuật
của Hòa thượng qua từng trang kinh sách và luôn thao thức cho vấn đề giáo dục mà khi Hòa thượng còn ở quê nhà và thời gian
du học vào năm 1952 và sau đó trở về nước vào năm 1964 để phục vụ cho Giáo Hội. Vốn đã có trình độ thế học được hun đúc
trong dòng huyết thống, và công năng tu tập qua Giới Định Tuệ, mà cố Hòa thượng đã làm rạng danh khi còn ở xứ người; Hòa
thượng thật xứng đáng là bậc Cao Tăng Thạc Đức đã đóng góp cho nền Văn học Phật giáo Việt Nam trên mọi lãnh vực …
Hơn 70 năm, từ khi xuất gia học đạo cho đến tháng năm từ giã chốn Phù trần, cuộc đời và đạo nghiệp của Ngài mãi là tấm gương
sáng; là trầm hương xông ngát giữa cõi vô thường, là bông hoa tươi đẹp trong những vườn hoa, mà các thế hệ Tăng Ni và Phật
tử Việt Nam vẫn luôn hướng vọng về Ngài!

Hơn thập niên qua, bóng hình Ngài đã đi vào cõi niết bàn tịch diệt, nhưng hoa Ưu Đàm vẫn còn thơm ngát giữa chốn rừng
thiền; giờ đây chốn Tổ Tường Vân, hàng Tôn phong vẫn tiếp nối truyền thừa. Núi Ngự Bình vẫn sừng sững giữa đất trời bao la vô
tận, Trường Khải Định (Quốc Học) vẫn bên cạnh dòng Hương Giang thơ mộng; Có phải chăng con người và vũ trụ vẫn luôn hòa
quyện với nhau để đi về một phương trời xa thẳm?!...

Nặng nghĩa đạo tình, nặng núi sông
Giao du học đạo chốn hồng trần
Đáp đền Phật Tổ ân giáo dưỡng
Lui gót quay về cõi sắc không
(Trường Sanh - Phương Lan Yên)

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tam Thế, Xuân Kinh Tường Vân Tổ Đình Trú Trì, Thiền Viện Vạn Hạnh Khai Sáng, Sung Việt Nam
Phật Giáo Giáo Hội, Chứng Minh Hội Đồng Phó Pháp Chủ, Húy Thượng Tâm Hạ Trí, Tự Minh Châu, Hiệu Viên Dung Trưởng Lão Hòa
Thượng Giác linh Thùy Từ Chứng Giám



*Tư Liệu Tham khảo:

- Tưởng niệm Trưởng lão Hòa Thượng Thích Minh Châu (1981-2012)
- Tư liệu trên các trang mạng và kinh sách.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/08/2021(Xem: 4598)
Hòa thượng thế danh là Trần Đại Quảng, pháp danh Tâm Trí, tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên, thuộc đời thứ 43 dòng Lâm Tế, Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Dương Nổ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình Nho phong đức hạnh nhưng có chí cách tân, theo hướng Tây học. Thân phụ là cụ ông Trần Đại Dật, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mĩu (pháp danh Tâm Mỹ). Ngài lớn lên theo truyền thống giáo dục gia phong, được tiếp xúc với nhiều bậc thân hữu trí thức của thân phụ trong những lúc hàn huyên hay luận bàn văn sách. Do đó Ngài đã sớm tiếp thu kiến thức sâu rộng, lý giải sự việc nhanh chóng, đạt lý thuận tình nên rất được lòng quần chúng. Ngài ham học hỏi, hiếu khách, nhất là được kết thân với các bậc thiện hữu tri thức, chính vì thế mà Ngài phát huy trí tuệ rất nhanh. Nhờ tính năng động và chí phấn đấu trong học tập và lao động nên dù nghiêm thân mất sớm, Ngài, với tư cách con trưởng, vẫn giữ vững gia nghiệp, phụ giúp mẫu thân dưỡng dục các em học hành t
20/08/2021(Xem: 9891)
Sư Phụ Tôi người hiền hoà chất phát Sống một đời giản dị rất bình dân Bất cứ ai dù ở chốn xa gần Khi cần đến Ngài sẵn sàng cứu giúp. Ngài thuộc bậc hàng cao Tăng thạc đức Nhưng lúc nào cũng tỏ hạ khiêm cung Sống giản đơn nhưng sắc thái kiêu hùng Bình thuận tỉnh, đệ huynh đều kính mến. Không phung phí của Đàn na tín thí Từng hạt cơm, hạt đậu cả hạt mè Quần áo thì vài ba bộ che thân. Ngày ba bữa cháo rau cùng tương đậu. Thời khoá biểu Ngài luôn thường nhắc nhở
11/08/2021(Xem: 7240)
Toàn tập Kinh Tạng Nikaya cho Iphone & Ipad (cảm ơn TT Tâm Hải đã gởi tặng, mời đại chúng vào download để đọc kinh Tạng)
04/08/2021(Xem: 6713)
Sông Thạch Hãn, Ngân Thiền Tâm Mộ Phật. Chốn Trà Trì, Gương Học Hạnh Xuất Gia. Nhỏ Tầm Chơn, Quyết Chí Xa Thế Tục. Khoác Áo Nâu Sòng, Học Lối Thích Ca. Chào Song Thân, Xứ Bảo Lộc Quê Nhà. Nương Thầy Tổ, Giữ Gìn Tâm Hướng Đạo. Mùi Kinh Kệ, Tháng Ngày Xông Cõi Tịnh. Thuộc Luật Nghi, Từ Góc Hạnh Trăng Sao.
26/07/2021(Xem: 8200)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
12/07/2021(Xem: 4194)
Trăm Năm Cõi Mộng Phù Hương, Vọng Lời Kinh Phật, Mở Đường Pháp Sinh. Lời Thầy Còn Đọng Chút Tình, “Sông Bờ” Ai Đợi, Dáng Hình Trí Yên. Quê Quảng Bình, Dấu Phật Thiên. Nuôi Mầm Học Hạnh, Giãi Niềm Gia Lai. Thầy Dụng Võ, Ngọc Liên Đài, Thâu Lời Kinh Luận, Bỏ Ngoài Tục Danh.
26/06/2021(Xem: 4125)
Quên sao được những ngày đầu nhập đạo Quỳ trước Thầy con phát nguyện xuất gia (1) Cuộc đời con nay đã được an hòa Sống giải thoát trong tình thương Thầy, bạn Nương Chùa Tỉnh (Pháp Bảo) thăng hoa từng ngày tháng Từ học hành đến tu tập nâng cao Từng trải nghiệm với Phật Pháp nhiệm mầu Hành tinh tấn chuyển hóa nhiều nghiệp lực Sống vị tha khiêm cung tròn phước đức Học hạnh Thầy dung nhiếp độ chúng sanh Viện Huệ Nghiêm, Vạn Hạnh chưa viên thành (2) Đường phụng sự tham gia Đoàn Xã Hội (3) Nhưng tu hành Thầy khuyên đừng nên thối Tinh tấn lên nhân quả rất công bằng Việc sẻ chia thực hiện hết khả năng Đời ý nghĩa mang niềm vui dâng hiến Đức hài hòa của Thầy luôn thể hiện (4) Tròn vai trò Hội Chủ suốt nhiều năm Lòng của Thầy trong sáng tợ trăng rằm Quyết độ tận chúng sanh vơi đau khổ !!! Chùa Pháp Hoa, 26/06/2021 Thích Viên Thành
22/06/2021(Xem: 13285)
Lời thưa của người kết tậpNhững khi nhắc chuyện Chùa xưa, Mẹ thường kể “… Sau ngày Ông Ngoại bị liệt, Ôn Đỗng Minh hay thăm hỏi, và dặn các học trò thường xuyên lui tới săn sóc…” Tôi biết vỏn vẹn chỉ chừng ấy về Ôn, vậy đã là quá nhiều! Tập san Hoa Đàm số 12 này được kết tập và phát hành nhân ngày Kỵ, phần lớn nội dung bài vở, hình ảnh đã có trong tập Kỷ yếu Tưởng Niệm Ôn (viên tịch ngày 17.06.2005 | 11.05 năm Ất Dậu) do hàng Đệ tử của Ôn thực hiện trước đây, và một ít từ trang nhà Quảng Đức (https://quangduc.com/) của Thầy Nguyên Tạng biên tập, cũng như Pháp Tạng (http://phaptangpgvn.net/vie/) do Thầy Tâm Nhãn phụ trách.
21/06/2021(Xem: 5972)
Kính mời quý vị tham dự lễ húy kỵ Hòa Thượng khai sơn chùa Pháp Hoa, thượng NHƯ hạ HUỆ vào Chủ Nhật 27/6/21, và khóa an cư Kiết Đông từ ngày 4 đến 10/7/2021 theo chương trình như sau: 1.Lễ húy kỵ Hòa Thượng khai sơn: Chủ Nhật, 27/6/21: 8:00am: Phật tử công quả phước điền, 9:00am: Tụng kinh, niệm Phật. 10:30 am: Lễ Húy Kỵ Hòa Thượng Khai Sơn: (Có chương trình riêng). 12:00pm: Cơm chay đạo vị. 2.Lễ kiết giới an cư: Chủ Nhật, 4/7/21: 8:00am: Chư Tăng Ni và Phật tử câu hội và ổn định chổ ở. 9:30am: Lễ khai mạc, công bố nội quy tu học, và Lễ kiết giới tràng, 11:00am: Quá đường, ngọ trai và Lễ Xả giới tự tứ ngày Thứ Bảy 10/7/2021.
18/06/2021(Xem: 8875)
Mười tuổi không may mất mẹ cha Cư tang hiếu kính vẹn tình nhà Ân sâu dốc trả tâm quy đạo Nghĩa nặng mong đền chí xuất gia Phật Pháp tinh thông an lạc hiện Thiền Kinh quảng lãm não phiền xa An Ban Thủ Ý vui nguồn sống Lục Độ Tập Kinh toả đức hoà.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]