Cuộc Đời Phụng Sự Đạo Pháp
Trên Lãnh Vực Giáo Dục
Của Cố Trưởng Lão Thích Minh Châu
Tỳ Kheo Thích Trường Sanh Phụng Soạn
Dẫn nhập: Trong vũ trụ bao la vô bờ bến, từ vô thỉ đến vô chung; với những cơn sóng bạt ngàn giữa lòng đại dương, hay những khe suối ẩn
mình chảy róc rách giữa chốn rừng sâu, hay những cơn đại phong thịnh nộ thổi đi những bảo vật ra tận chốn mù khơi!
Một chúng sanh có nhiều yếu tố nhân duyên hội tụ để rồi tan hợp, hợp tan. Từ dòng nghiệp thức ấy, đã xuất hiện những bông hoa xinh đẹp,
để tô điểm cho cuộc đời này thêm nhiều hương sắc!
Kính bạch quý Ngài, thưa Quý vị: Hôm nay, giờ này tại Khánh Anh Tự, Chúng tôi có nhân duyên từ Nam bán cầu, một đất nước xa xôi, đến
xứ trời Âu để tham dự ngày Giỗ tổ về nguồn, Đại giới đàn Minh Tâm và tán thán công hạnh của cố Trưởng lão Minh Châu, người đã cống hiến
cuộc đời cho Đạo pháp.
A - Thân thế:
Hòa thượng thế danh Đinh Văn Nam, Pháp danh Tâm Trí, Pháp tự Minh Châu, Pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành, tỉnh Quảng Nam; nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An miền Trung nước Việt; Ngài là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng Thống GHPGVN Thống Nhất, Trú trì Tổ đình Tường Vân, Thừa Thiên - Cố đô Huế.
Thân phụ của Ngài là cụ Đinh Văn Chấp, Pháp danh Trừng Tuệ, thân mẫu là bà Lê Thị Đạt, Pháp danh Trừng Tín; gia đình Hòa thượng có 11
người con, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Thân sinh của Hòa thượng đỗ Tiến sĩ Hoàng Giáp năm 21 tuổi ( Quý sửu, 1913, niên
hiệu Duy Tân thứ 7), Hòa thượng ảnh hưởng nền giáo dục với thân phụ của Ngài khi tuổi còn nhỏ, do đó Hòa thượng siêng năng học tập và
phát triển về học vấn rất nhanh.
Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng Cao đẳng Tiểu học Đông Dương; năm 1940, Hòa thượng đỗ bằng Tú tài Toàn phần tại trường Khải Định - Huế
(nay là trường Quốc Học), thời gian này, Ngài được bổ nhiệm làm thư ký tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên, làm việc được một năm tại đây nhìn
thấy không thuận duyên và xin nghỉ việc.
B - Tìm Hiểu Giáo Lý Đạo Phật Và Phát Tâm Xuất Gia
- Tìm Hiểu Giáo Lý Đạo Phật: Năm 1932, Hội An Nam Phật Học ra đời, phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung phát triển. Bác sĩ Tâm
Minh - Lê Đình Thám là một Phật tử được bầu làm Hội trưởng, kiêm chủ bút tạp chí Viên Âm; phong trào học Phật do Bác sĩ tổ chức có
nhiều thành phần trí thức tham gia như: Ngô Điền, Phạm Hữu Bình, Võ Đình Cường…; Hòa thượng cùng người em là Đinh Văn Vinh đến với
phong trào học Phật từ năm 1936, do Bác sĩ Lê Đình Thám giảng dạy và đảm nhiệm chức chánh thư ký của Hội, từ đó Hòa thượng gắn liền
với Hội và phát động mọi tầng lớp thanh niên tham gia học Phật, Hòa thượng là người đi đầu trong các phong trào này.
Trong tư cách là người Phật tử, bên cạnh Hội trưởng Tâm Minh - Lê Đình Thám, Hòa thượng hoạt động một cách tích cực để phát triển
Phật sự của 17 chi hội thuộc Phật giáo miền Trung. Phong trào thanh niên nghiên cứu Đạo Phật, Hòa thượng là người sáng
lập Đoàn Phật học Đức Dục và Gia đình Phật Hóa Phổ (tên cũ tổ chức gia đình Phật tử Việt Nam sau này). Trong cuộc chấn hưng Phật giáo
từ Cố đô Huế đến các tỉnh miền Trung, từ buổi ban đầu Hòa thượng đã có nhiều cống hiến, như: Vận động một số Học viên Phật tử bảo trợ
cho trường Phật Học Báo Quốc - Huế, Tòng Lâm Kim Sơn, trong thời kỳ khó khăn về kinh tế, mà các trường này là nơi đào tạo Tăng tài cho Phật
giáo lúc bấy giờ mãi đến hôm nay, và Ngài tìm mọi cách giúp đỡ quý Thầy vào miền Nam để có nhiều điều kiện tu học.
- Xuất Gia Tu Học:
Thời gian làm việc ở Hội quán, Hòa thượng đã học hỏi và am hiểu giáo lý từ Bác sĩ Lê Đình Thám và quý Tôn đức trong Sơn môn Thừa Thiên - Huế; thời gian này Ngài đã vào ở trong chùa Tường Vân và thực tập nếp sống Thiền môn như chúng điệu ở trong chùa, từ đó Hòa thượng quyết chí xuất gia học đạo.
Năm 1946, Ngài đầu sư với Hòa thượng: thượng Trừng, hạ Thông, tự Chơn thường, hiệu Tịnh Khiết (Đức Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVN Thống Nhất) thuộc Thiền phái liễu Quán tại Chùa tổ Tường Vân, làng Hạ I, xã Thủy Xuân, thành phố Huế,và được Bổn sư cho Pháp danh Tâm Trí; trãi qua những năm tháng hầu Thầy học đạo và chấp lao phục dịch tại chùa tổ Tường Vân cũng như việc của Hội; công phu, công quả của Ngài đã đầy đủ. Vào năm 1949 (Kỷ Sửu), Hòa thượng được Bổn sư cho phép thọ giới cụ túc, tại Giới đàn Hộ Quốc, tổ chức tại chùa Báo Quốc Huế; giới đàn nầy, Hòa thượng Bổn sư của Ngài làm Đàn đầu; Hòa thượng được Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Tam đàn cụ túc, và được Hòa thượng Bổn sư cho Pháp tự Minh Châu, Pháp hiệu Viên
Dung. Sau khi đã nhập vào Tăng đoàn,Hòa thượng sinh hoạt với Hội Phật học Trung phần, chuyên cần giảng dạy Phật pháp khắp các chùa
Hội, hướng dẫn thanh thiếu niên Gia đình Phật tử, viết bài tạp chí Viên Âm, Từ Quang, Liên Hoa…, chủ bút tạp chí Tư tưởng. Năm 1951, khi
Hội thành lập trương Trung học Bồ Đề đầu tiên ở Huế, Hòa thượng được mời giữ chức Hiệu trưởng. Hội nghị thống nhất Phật giáo ba
miền Bắc Trung Nam được tổ chức tại chùa Từ Đàm vào năm 1951, Hòa thượng được cử tham dự đại biểu chính thức.
C - Xuất Dương Du Học:
Trong quá trình nghiên cứu Kinh Luật Luận Hán tạng. Hòa thượng nhận thấy cách phiên âm các từ ngữ Pãli, Sanskrit có sự sai khác khó hiểu, từ đó Hòa thượng xin phép Bổn sư và Hội Phật học Trung phần cho phép xuất dương du học tại Sri Lanka và Ấn Độ về Kinh Luật Luận Pãli và Sanskrit để sau này về nước phiên dịch ra tiếng Việt để cho mọi tầng lớp hiểu rõ về Tam tạng Thánh giáo.
Vào năm 1952, được sự chấp thuận của Giáo hội và Hòa thượng Bổn sư, Hòa thượng xuất dương du học tại Sri Lanka, học Pãli và Anh Văn
tại Colombo. Năm 1955, Hòa thượng được trường Đại học Sri Lanka tặng bằng Pháp sư (Saddhammacariya), sau đó Hòa thượng sang Ấn
Độ và theo học tại Nava Nalanda Maharihara thuộc Đại học Bihar (Ấn Độ). Năm 1958, Hòa thượng liên tiếp đỗ các văn bằng Cử nhân Pãli và
Anh văn, đặc biệt là đỗ Thủ khoa MA (Cao học) về Pãli và Abhidhamma; khóa học này Sinh viên Ấn Độ và các nước theo học rất đông cùng khóa
với Hòa thượng. Với luận án so sánh tập Pãli Trung Bộ Kinh với tập Trung A Hàm chữ Hán. Tháng 9 năm 1961, Hòa thượng là người Việt
Nam đầu tiên đỗ Tiến sĩ Phật học, văn học Pãli Ấn Độ, đích thân Tổng thống Ấn Độ trao bằng danh dự và khen ngợi Luận văn này. Năm 1962-
1963, Hòa thượng được Đại học Bihar (Ấn Độ) mời ở lại giảng dạy tại đây. Trước khi về nước, Hòa thượng đã viết nhiều tác phẩm bằng tiếng
Anh như: Huyền Trang nhà chiêm bái và Học giả (Hsuan T’sang, The pilgrim and sholar); so sánh tập Pãli Milindapãnha với tập Na Tiên Tỳ
Kheo chữ Hán (Milindapãnha and Na-Hsien Bhikshu Sutu-AComparative Study); Pháp Hiển, nhà chiêm bái khiêm tốn (Fa-Hsien,The Unassuming Pilgrim)…. Năm 1964, Hòa thượng trở về nước tiếp tục trước tác và dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị để cho hàng xuất gia tu học.
D - Thời gian về nước làm Phật Sự.
I. Công việc Hoằng Pháp:
Tháng 4 năm 1964, sau khi trở về nước, Hòa thượng đã đem hết khả năng của mình để làm Phật sự, như: phiên dịch Kinh tạng, mở trường Đại học Vạn Hạnh v.v…, ngõ hầu báo đáp thâm ân Phật Tổ, từ đó Hòa thượng đã được mời giữ chức vụ phó Viện trưởng Viện cao đẳng Phật học Sài Gòn (1964-
1965), đến năm 1965, Viện cao đẳng phật học Sài Gòn được đổi thành Viện Đại học Vạn Hạnh; Hòa thượng đã tiến hành xây dựng
cơ sở mới tại số 222 đường Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sỹ), do Hòa thượng làm Viện trưởng, và Viện mở thêm 5 phân khoa: Phân khoa Phật học: Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Mãn Giác làm khoa trưởng. Phân khoa văn khoa: Hòa thượng Thiên Ân, Đại Đức Nguyên Tánh, Giáo sư Nguyễn Đăng Thục làm khoa trưởng. Phân khoa khoa học - xã hội: Giáo sư Tôn Thất Thiện, Giáo sư Bùi Tường Huân làm khoa trưởng. Phân khoa
giáo dục: Đại Đức Nguyên Hồng làm khoa trưởng. Trung tâm ngoại ngữ: Giáo sư Cẩm Quỳnh làm giám đốc. Năm 1967, Hòa thượng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Tư tưởng.
Sau năm 1975, Hòa thượng trở về cơ sở II ở Phú Nhuận thành lập Phật học Viện Vạn Hạnh, nơi đây Hòa thượng tập trung vào việc phiên dịch toàn bộ Kinh tạng Pãli sang Việt ngữ. Hòa thượng cũng dành nhiều thời gian giảng dạy cho các giới Phật tử, và giảng pháp mỗi buổi sáng chủ nhật hằng tuần cho Tăng Ni Phật tử; các buổi giảng đầu tiên tại chùa Ấn Quang, Xá Lợi; Hòa thượng giảng với quý Ngài Đôn Hậu, Thiện Châu…, từ đó phong trào học Phật,
nghe pháp, chủ nhật hằng tuần được lan rộng nhiều nơi.
II. Công Trình Biên Soạn Và Phiên Dịch Của Hòa Thượng:
Từ khi còn ở quê nhà chưa đi du học tại Sri Lanka và Ấn Độ, còn là một Phật tử, Ngài đã gần gũi với Bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám, học hỏi kinh điển và Phật pháp nơi vị Cư sĩ uyên thâm Phật học; Ngài đã viết nhiều tạp chí Phật giáo và những Phật sự quan trọng của giáo hội.
Suốt mười mấy năm du học nước ngoài, sau khi trở về nước, mặc dù nhiều Phật sự trong nhiều hoàn cảnh, nhưng mục đích chính của Ngài dành nhiều thời gian phiên dịch từ kinh tạng Pãli và trước tác nhiêu tác phẩm có giá trị như sau:
- Dịch Kinh Tạng Pãli:
1. Trường Bộ Kinh (2 tập)
2. Trung Bộ Kinh (3 tập)
3. Tương Ưng Bộ Kinh (5 tập)
4. Tăng Chi Bộ Kinh (5 tập)
5. Tiểu Bộ Kinh, gồm các tập như sau:
a. Pháp cú (kinh lời vàng)
b. Kinh Phật Tự Thuyết
c. Kinh Phật Thuyết Như Vậy
d. Kinh Tập
e. Trưởng Lão Tăng Kệ
f. Trưởng Lão Ni Kệ
g. Bổn Sanh (2 tập)
- Dịch từ Abhidhamma:
- Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhammatthasangaha)
- Sách viết bằng Tiếng Anh:
- Hsuan T,sang, The pilglrim (Huyền Trang, nhà chiêm bái và học
giả (Ni sư Trí Hải dịch ra Việt văn)
- Fa-Hsienr, The Unassuming Pilgrim (Pháp Hiển, nhà chiêm bái
khiêm tốn - Ni sư Trí Hải dịch ra Việt văn)
- Milindapanha and Na-Hsien Bhikshu Sũtra-A Com pảrative
Study (Cư sĩ Nguyên Tâm - Trần Phương Lan dịch ra Việt văn)
- The Chinese Madhyama Ãgama and The Pãli Majjhima Nikãya-
A comparative Study (luận án Tiến sĩ Phật học, Ni sư Trí Hải
dịch ra Việt văn)
- Sách viết bằng tiếng Việt của Hòa thượng:
1. Phật pháp (đồng các tác giả)
2. Đường về xứ Phật (đồng các tác giả)
3. Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật
4. Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (dịch)
5. Sách dạy Pãli (dịch)
6. Trước sự nô lệ của con người
7. Chữ Hiếu trong Đạo Phật (đồng các tác giả)
8. Hành thiền
9. Lịch sử Đức Phật Thich Ca
10. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi
11. Chánh pháp và Hạnh phúc (2001)
12. Đạo đức Phật Giáo và hạnh phúc con người (2002)
13. Những mẫu chuyện đạo (2004)
14. Đức Phật, nhà đại giáo dục (2005)
15. Đức Phật của chúng ta (2005)
16. Tâm từ mở ra, khổ đau khép lại (2006)
17. Những gì Đức Phật đã dạy (2007)
18. Hiểu và hành Chánh pháp (2008)
19. Chiến thắng ác ma (2009)
20. Tóm tắt Kinh Trung Bộ (2010)
21. Dàn ý Kinh Trung Bộ và tóm tắt Kinh Trường Bộ (2011)
III. Xây Dựng Cơ Sở Và Giáo Dục:
Khi trở về nước năm 1964, Hòa thượng Trí Thủ, Nhất Hạnh và Hòa thượng thừa lệnh Giáo hội mượn chùa Pháp Hội mở trường
Cao đẳng Phật học do Hòa thượng Trí Thủ làm Viện trưởng, Hòa thượng được Giáo hội mời làm phó Viện trưởng điều hành. Năm
1965, được sự cho phép của Bộ Giáo dục, trường mở thêm phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn (văn khoa) Hòa thượng giữ
chức Khoa trưởng sau đó mời Hòa thượng Thiên Ân đảm trách, lúc này mượn chùa Xá Lợi làm nơi giảng dạy. Cuối năm 1965 đổi
tên thành Đại học. Hòa thượng được chỉ định giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, kiêm Khoa trưởng Phân khoa
Phật học. Trong năm này, Đại học Vạn Hạnh được dời về và xây dựng cơ sở mới tại số 222 Trương Minh Giảng (nay là đường Lê
Văn Sỹ) và mở thêm các Phân khoa, khoa học xã hội và Giáo dục.
Hòa thượng khoa trưởng các phân khoa này, sau đó Hòa thượng mời các Giáo sư Tôn Thất Thiện, Bùi Tường Huân làm khoa
trưởng và Tiến sỹ Thích Nguyên Hồng làm khoa trưởng Phân khoa Giáo dục và Hòa thượng đã chỉ đạo mở thêm Trung tâm
ngoại ngữ trong khuôn viên Đại học Vạn Hạnh.
Năm 1972, Hội đồng Viện quyết định mua cơ sở ở đường Võ Duy Nguy (nay là đường Nguyễn Kiệm) để mở thêm Phân khoa Khoa
học Ứng dụng. Hòa thượng về đây đảm nhiệm Khoa trưởng. Tại đây, năm 1974, Hòa thượng chủ trì lễ kỷ niệm 10 năm thành lập
Viện Đại học Vạn Hạnh (1964 - 1974), với sự tham dự của chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Giáo sư, trong ban Giáo sư của
Viện và hơn 10 ngàn sinh viên tham dự.
Tại cơ sở này, năm 1984 Hòa thượng đã mở trường Cao cấp Phật học (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Sài Gòn) do Hòa
thượng làm Viện trưởng, Ngài cũng làm Đàn đầu Hòa thượng truyền giới Cụ túc cho 60 Tăng Ni sinh khoá I này.
Năm 1981, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở I được thành lập tại chùa Quán Sứ Hà Nội, Hòa thượng được mời làm Hiệu
trưởng (nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội), tại Học viện Phật giáo Việt Nam Sài Gòn, Hòa thượng đã lần lượt tổ chức
tuyển sinh và đào tạo được 5 khóa cử nhân Phật học; các khóa Tăng Ni sinh này đã đáp ứng nhân sự để phục vụ cho Giáo hội.
Ngày 20 tháng 10 năm 1997, Hòa thượng chủ trì lễ khởi công xây dựng cơ sở mới của Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố
Sài Gòn; công trình tiến hành gần 2 năm, đến ngày 23 tháng 4 năm 1999 đã hoàn thành và lễ khánh thành đã được tổ chức
trong năm này.
IV. Nhiếp Hóa Đồ Chúng :
Có rất nhiều Phật sự của Giáo hội như: Giáo dục Tăng Ni, phiên dịch Kinh tạng và trước tác nhiều tác phẩm, nhưng Hòa thượng
vẫn luôn nhớ về cội nguồn nơi mình đã xuất gia học đạo. Vì thế, sau khi Hòa thượng pháp hiệu Vĩnh Thừa (chùa Châu Lâm Huế)
kế vị Đức Đệ nhất Tăng Thống trú trì Tổ Đình Tường Vân viên tịch, Hòa thượng được Giáo hội và toàn thể chư Tôn đức Tăng Ni
thuộc môn phái Tổ đình Tường Vân suy tôn lên ngôi vị Trú trì Tổ đình năm 1984, dưới sự chứng minh của chư Tôn Trưởng lão:
Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Hòa thượng Thích Mật Hiển, Hòa thượng Thiện Thiện Siêu…, trong cương vị Trú trì, Hòa thượng đã
nhiếp hóa đồ chúng, tổ chức giới đàn Sa di phương trượng cho Tăng chúng trong môn phái và chỉ đạo, sửa sang xây dựng một số
công trình khu vực Bảo tháp của các vị Tổ sư và Tháp Bổn sư; tại Thiền viện Vạn Hạnh năm 2001, Hòa thượng đã cho đại trùng tu
ngôi chánh điện và đến tháng 10 năm 2004 thì hoàn tất. Tháng 9 năm 2005, Ngài cho xây dựng ngôi Tăng xá và đến tháng 10 năm
2006 tổ chức lễ khánh thành.
V. Công Tác Đối Ngoại:
Với khả năng ngoại ngữ đã có và kiến thức Phật học, suốt thời gian tu học tại quê nhà và tại Sri Lanka - Ấn Độ, cho nên Hòa
thượng được Giáo hội giao phó công tác đối ngoại như:
- Năm 1965, Hòa thượng viếng thăm và thuyết giảng tại Đại học Kamazzawa, Taísho Nhật Bản.
- Năm 1967, Hòa thượng tham dự Hội thảo Giáo dục tại Đại học Yahe, Hoa Kỳ.
- Tháng 6-1968, Hòa thượng tham dự Đại hội Giáo dục Liên Viện Trưởng Thế giới tại Đại Hàn.
- Cuối năm 1968, Hòa thượng đại diện cho các trường Đại học miền Nam Việt Nam, tham dự Đại hội Giáo dục Quốc tế tại
Mexico.
Hòa thượng từng tham gia rất nhiều Hội nghị quốc tế, đặc biệttrong Đại hội Phật giáo Châu Á vì Hòa bình (ABCP) lần thứ V năm
1982 tại Ulan Bator (Mông Cổ) Hòa thượng đã được bầu giữ chức vụ Ủy viên Ban chấp hành (1982-1985) của Hội và Phó Chủ tịch
của Hội này.
- Tháng 6-1983, Hòa thượng tham dự Hội nghị Hòa bình Thế giới, chống vũ khí hạt nhân tại Praha, Tiệp Khắc.
- Năm 1984, Hòa thượng hướng dẫn Phái đoàn GHPG Việt Nam, tham dự Hội nghị Phật giáo với chủ đề: Đạo Phật và nền văn hóa
dân tộc, tại New Delhi Ấn Độ.
- Năm 1985, Hòa thượng tham dự Hội nghị bàn tròn với chủ đề: Các mối nguy hiểm đối với sự sống thiêng liêng của chúng ta tại
Moscow – Nga.
- Năm 1992, Hòa thượng làm Trưởng phái đoàn tham dự Hội nghị Quốc tế ABCP tại Colombo, Sri Lanka.
- Năm 1991, Hòa thượng làm Trưởng phái đoàn tham dự Hội nghị: Các Tôn giáo vì một đại dương Hòa bình tại Macta Ý.
- Năm 1993, Hòa thượng tham dự Hội nghị Tăng già quốc tế tại Đài Loan.
- Năm 1993, Chủ tịch Trung tâm ABCP Việt Nam, Hòa thượng Chủ tọa Hội nghị Quốc tế giải trừ quân bị tại thủ đô Hà Nội - 1993.
- Năm 1994, Hòa thượng cùng Hòa thượng Thiện Siêu dẫn phái đoàn chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ.
- Năm 1994, Hòa thượng tham dự Hội nghị Tăng già Quốc tế tại Vancouver - Canada.
- Năm 1995, Ngài làm Trưởng phái đoàn Phật giáo Việt Nam thăm viếng và chủ trì cuộc họp hội thảo Phật giáo tại Paris Pháp quốc.
- Tháng 5-1996, Hội đồng Đại học Hoàng Gia Thái Lan đã trân trọng tặng bằng Tiến sĩ danh dự cho Hòa thượng, về công trình
phiên dịch Kinh điển và sự nghiệp Giáo dục của Ngài.
VI. Những Tháng Ngày Cuối Đời:
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử các giới, Thưa quý liệt vị: Vừa rồi quý Ngài, quý liệt vị lắng nghe chúng tôi trình bày thân
thế đạo nghiệp của cố Trưởng lão Thích Minh Châu qua các tư liệu mà chúng tôi đã sưu tầm, và chúng tôi có một chút duyên
lành được cố Hòa thượng giảng dạy kinh tạng Nikya tại Thiền viện Vạn Hạnh, do đó chúng tôi nhìn thấy sự miệt mài dịch thuật
của Hòa thượng qua từng trang kinh sách và luôn thao thức cho vấn đề giáo dục mà khi Hòa thượng còn ở quê nhà và thời gian
du học vào năm 1952 và sau đó trở về nước vào năm 1964 để phục vụ cho Giáo Hội. Vốn đã có trình độ thế học được hun đúc
trong dòng huyết thống, và công năng tu tập qua Giới Định Tuệ, mà cố Hòa thượng đã làm rạng danh khi còn ở xứ người; Hòa
thượng thật xứng đáng là bậc Cao Tăng Thạc Đức đã đóng góp cho nền Văn học Phật giáo Việt Nam trên mọi lãnh vực …
Hơn 70 năm, từ khi xuất gia học đạo cho đến tháng năm từ giã chốn Phù trần, cuộc đời và đạo nghiệp của Ngài mãi là tấm gương
sáng; là trầm hương xông ngát giữa cõi vô thường, là bông hoa tươi đẹp trong những vườn hoa, mà các thế hệ Tăng Ni và Phật
tử Việt Nam vẫn luôn hướng vọng về Ngài!
Hơn thập niên qua, bóng hình Ngài đã đi vào cõi niết bàn tịch diệt, nhưng hoa Ưu Đàm vẫn còn thơm ngát giữa chốn rừng
thiền; giờ đây chốn Tổ Tường Vân, hàng Tôn phong vẫn tiếp nối truyền thừa. Núi Ngự Bình vẫn sừng sững giữa đất trời bao la vô
tận, Trường Khải Định (Quốc Học) vẫn bên cạnh dòng Hương Giang thơ mộng; Có phải chăng con người và vũ trụ vẫn luôn hòa
quyện với nhau để đi về một phương trời xa thẳm?!...
Nặng nghĩa đạo tình, nặng núi sông
Giao du học đạo chốn hồng trần
Đáp đền Phật Tổ ân giáo dưỡng
Lui gót quay về cõi sắc không
(Trường Sanh - Phương Lan Yên)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tam Thế, Xuân Kinh Tường Vân Tổ Đình Trú Trì, Thiền Viện Vạn Hạnh Khai Sáng, Sung Việt Nam
Phật Giáo Giáo Hội, Chứng Minh Hội Đồng Phó Pháp Chủ, Húy Thượng Tâm Hạ Trí, Tự Minh Châu, Hiệu Viên Dung Trưởng Lão Hòa
Thượng Giác linh Thùy Từ Chứng Giám
*Tư Liệu Tham khảo:
- Tưởng niệm Trưởng lão Hòa Thượng Thích Minh Châu (1981-2012)
- Tư liệu trên các trang mạng và kinh sách.