Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HT Thích Tuệ Sỹ: Tu Sĩ, Thi Sĩ, Nhạc Sĩ (1945-2023)

03/01/202415:50(Xem: 1544)
HT Thích Tuệ Sỹ: Tu Sĩ, Thi Sĩ, Nhạc Sĩ (1945-2023)
on tue sy-1945-2023

HT.THÍCH TUỆ SỸ : TU SỸ - THI SỸ - NHẠC SỸ
(1945-2023)

 

Montréal 1/12/2023

Từ mấy hôm nay Mộng Lệ An chìm trong tuyết trắng, mùa đông Québec đẹp lắm giống bức tranh vẽ cảnh thần tiên.

Bầu trời xanh những bình minh nắng hồng, tuyết như bông gòn ấp ủ cành thông trước nhà. Kìa chim sóc líu lo hiền hòa truyền cành tìm chút gì cho ấm bụng. Từng cụm mây xám trĩu nặng chỉ chờ trời ấm gió lặng để trút những hoa tuyết thơ mộng dễ thương.

Trong không trung tiếng nhạc Giáng Sinh đâu đây vang vọng.

Cùng khoảnh khắc đó, thời gian ngừng đọng, nửa vòng trái đất, bản Moonlight Sonata của Beethoven trổi lên, từng nốt chậm rãi trên phím đàn từ trái tim dào dạt.

 

"Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt

Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng

Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc

Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên."

(Tuệ Sỹ: Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm)

 

Hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ ngồi đó bên đàn dương cầm piano à queue. Ánh sáng chan hòa từ cửa kính lớn suốt chiều dài phòng khách. Dáng người gầy guộc nhưng lưng ngồi thẳng, Thầy cúi đầu, chăm chú vô từng nốt nhạc của bài Moonlight Sonata (Clair de Lune), một tuyệt tác của Beethoven. Hôm đó là ngày 14/6/2022 ở tư gia của đệ tử Trần Bảo Toàn, cũng là lần cuối cùng Ôn chơi piano.

 

"Từ đó ta trở về Thiên giới,

Một màu xanh mù tỏa Vô biên.

Bóng sao đêm dài vời vợi;

Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền.

 

Chiều như thế, cung trầm khắc khoải.

Rát đầu tay nốt nhạc triền miên.

Ôm dấu lặng, nhịp đàn đứt vội.

Anh ở đâu, khói lụa ngoài hiên?"

(Tuệ Sỹ: Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm)

 

Ôn lâm trọng bệnh từ nhiều năm trước đại dịch Covid 2020, nhưng Ôn ráng kéo dài thọ mạng vì GHPGVNTN, với vai trò Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống. Vì như Ôn nhắc trong bài “Gởi Tăng Sinh Thừa Thiên Huế”, GH là biểu tượng, là mạng mạch nối tiếp truyền thống PGVN, nói lên những hy sinh, công hiến của quý Ôn khi xưa và là động lực cho thế hệ sau tiếp nối công việc bảo tồn và phát huy PGVN. Thêm vào đó, với vai trò Chủ tịch Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời, công trình dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam Thanh Văn Tạng chưa xong.

Thuốc điều trị làm những khớp ngón tay cứng, Ôn nói: "Bữa nay tôi chơi đàn, vấp nhiều, quên nốt, ngón tay cứng, không còn chơi mượt mà như xưa được nữa".

Những nốt nhạc mà một thời đã được Ôn nhân cách hóa tài tình, dí dỏm, linh động, vừa để trải tâm sự sâu lắng vào đó.

 

"Công Nương bỏ quên chút hờn trên dấu lặng

Chuỗi cadence ray rứt ngón tay

Ấn sâu xuống ưu phiền trên phím trắng

Nửa phím cung chõi nhịp lưu đày

 

Đôi mắt cay phím đen phím trắng

Đen trắng đuổi nhau thành ảo tượng

Trên tận cùng điểm lặng tròn xoe

Ta gửi đó ưu phiền năm tháng"

(Tuệ Sỹ: Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm)

 

Thật vậy, tâm hồn của Ôn Tuệ Sỹ luôn lai láng, nhậm vận thịnh suy như bốn mùa đến đi, buồn vui gì cũng viết thành những áng văn chương bất hủ, muôn màu sắc và âm thanh, có sơn hà đại địa, từ hạt bụi đến càn khôn vũ trụ, vượt ra khỏi mọi ràng buộc, buồn mà không buồn, trong cái gọi là buồn có niềm vui và sức sống, đầy thi vị, vì Ôn nhìn đời và mọi sự vật bằng con mắt đạo, thoát ra những đối đãi của nhị nguyên, có/không. Cho nên ai đọc thơ của Ôn, dù là thơ tù đày, không thấy nặng nề, hận thù mà không hận thù, chỉ thấy tâm hồn thoát tục như bài thơ Tôi Vẫn Đợi:

 

"Tôi vẫn đợi những đêm dài khắc khoải

Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng

Trong bóng tối hận thù, tha thiết mãi

Một vì sao bên khóe miệng rưng rưng.

 

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió

Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa

Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử

Dài con sông tràn máu lệ quê cha.

 

Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ

Quên những người xuôi ngược Thái Bình dương

Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa

Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.

 

Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng

Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu

Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng

Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều."

(Tuệ Sỹ: Tôi Vẫn Đợi – Sài Gòn 1978 - Tập thơ Giấc mơ Trường Sơn)

 

 

Hay trong bài thơ Khung Trời Cũ (Không Đề):

 

"Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ

Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ

Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

 

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở

Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Cười với nắng một ngày sao chóng thế

Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

 

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ

Bụi đường dài gót mỏi đi quanh

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rủ

Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn."

(Tuệ Sỹ: Tập thơ Giấc mơ Trường Sơn)

 

Nhẹ nhàng, ví von nhưng sâu sắc như trong bài thơ Trúc Và Nhện:

“Nắng sớm in tường bạc
Trúc gầy ngả bóng xanh
Tâm tư lắng tĩnh mặc
Tơ nhện buông xuôi cành

Trúc biếc che ngày nắng
Hương chiều đuổi mộng xa
Phương trời nhuộm ráng đỏ
Tóc trắng nhện tơ lòa

Gió khẽ lay cành trúc
Hương vàng ánh nhện tơ
Buông rời giấc tịnh tọa
Nghe động phương trời xa

Ngõ vào qua khóm trúc
Cửa khép vượt đường mây
Tá túc trăng hờn nhện
Nghiêng nghiêng áo lụa dài

Trúc già ngọn phơi phới
Trời hận tuôn mưa rào
Nặng trĩu tình tơ nước
Trúc già lặng cúi đầu”

(Tuệ Sỹ: Tập thơ Giấc mơ Trường Sơn)

 

Hè năm nay trong nhà tôi nhiều kiến bò vô trên bàn bếp, phần thấy phiền, phần không muốn giết vì thương chúng do đói mới đi tìm miếng ăn và do linh tính trời chuyển mưa to nên đàn kiến rút vô nhà trú ngụ. Lúc đó tôi lại liên tưởng đến bài thơ Mộng Ngày của Ôn. Tâm trạng ưu tư, băn khoăn, khắc khoải, Ôn đều biến thành bài thơ nhân cách hóa linh động, nhẹ nhàng, dẫu biết sâu trong tâm khảm là sương mù tăm tối.

 

"Ta cỡi kiến đi tìm tiên động

Cõi trường sinh đàn bướm dật dờ.

Cóc và nhái lang thang tìm sống,

Trong hang sâu con rắn nằm mơ.

 

Đầu cửa động đàn ong luân vũ

Chị hoa rừng son phấn lẳng lơ.

Thẹn hương sắc lau già vươn dậy;

Làm tiên ông tóc trắng phất phơ.

 

Kiến bò quanh nhọc nhằn kiếm sống

Ta trên lưng món nợ ân tình.

Cũng định mệnh lạc loài Tổ quốc,

Cũng tình chung tơ nắng mong manh.

 

Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh

Ngoài hư không có dấu chim bay,

Từ tiếng gọi màu đen đất khổ,

Thắp tâm tư thay ánh mặt trời ?

 

Ta gọi kiến, ngập ngừng mây bạc;

Đường ta đi, non nước bồi hồi.

Bóc quá khứ, thiên thần kinh ngạc;

Cắn vô biên trái mộng vỡ đôi.

 

Non nước ấy trầm ngâm từ độ

Lửa rừng khuya yêu xác lá khô.

Ta đi tìm trái tim đã vỡ;

Đói thời gian ta gặm hư vô."

(Tuệ Sỹ: Mộng Ngày - Sài Gòn 1984 - Tập thơ Giấc mơ Trường Sơn))        

 

Ai nói tu sỹ không biết rung động, không biết yêu, không còn tình cảm.

Nhưng yêu đâu chỉ có nghĩa là tình yêu trai gái thuần túy và đối tượng là người nữ bằng xương bằng thịt.

Khi thơ nói về người con gái, đâu có nghĩa là nói về một con người thật. Nếu Ôn Tuệ Sỹ đã khéo léo dùng nhân cách hóa khi nói về con kiến, cóc nhái, nhện, trúc, hoa rừng, nốt nhạc, thì khi thơ của Ôn nói về tình cảm tha thiết với người con gái, Ôn cũng có thể đang nhân cách hóa, lãng mạn hóa một tâm trạng, nỗi niềm u uẩn, khát khao, như trong bài thơ tù Cho Ta Chép Nốt Bài Thơ Ấy.

“Ôi nhớ làm sao, em nhỏ ơi!
Từng đêm ngục tối mộng em cười
Ta hôn tay áo thay làn tóc
Nghe đắng môi hồng lạnh tím người

Đừng ghét mùa mưa, em nhỏ ơi!
Nằm ru vách đá chuyện lưu đày
Cho ta chút nắng bên song cửa
Để vẽ hình em theo bóng mây

Cho đến bao giờ, em nhỏ ơi!
Tường rêu chi chít đọng phương trời
Là ta chép nốt bài thơ ấy
Để giết tình yêu cả mộng đời”

(Tuệ Sỹ: Tập thơ Giấc mơ Trường Sơn)

 

Lãng mạn xiết bao như trong bài thơ Nhớ Con Đường Thơm Ngọt Môi Em:

“Tóc em tung bay sương chiều khói biếc
Dệt tơ trời thành khúc hát bâng khuâng
Tình hay mộng khi Trường Sơn xa hút
Đến bao giờ mây trắng gởi tin sang

Gót chân em nắng vàng xua viễn phố
Những ngón hồng ngơ ngác giữa đường chim
Ôi ta nhớ như đêm dài thượng cổ
Sợi tóc mềm lơi nhịp hát trong tim”

(Tuệ Sỹ: Tập thơ Giấc mơ Trường Sơn)

 

Trữ tình như bài thơ Nhớ Dương Cầm:

“Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca
Tay em rung trên những phím lụa ngà
Thôi huyễn tượng xô người theo cát bụi
Vùng đất đỏ bàn chân ai bối rối
Đạp cung đàn sương ứa đọng vành môi
Đường xanh xanh phơn phớt nụ ai cười
Như tơ liễu ngại ngùng lay nắng nhạt
Lời tiễn biệt nói gì sau tiếng hát
Hỏi phương nào cho nguyện ước Trường Sơn
Lời em ca phong kín nhụy hoa hờn
Anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
Mờ phố thị những chiều hôn suối tóc
Bóng ai ngồi so phím lụa đàn xưa”

(Tuệ Sỹ: Tập thơ Giấc mơ Trường Sơn)

 

Ôn Tuệ Sỹ mượn thơ văn, thi phú, tiếng đàn (Ôn chơi dương cầm, vĩ cầm, tây ban cầm…) và tình cảm lai láng để phá chấp về hai quan niệm Tu-Đạo là không hết mọi thứ, dứt tình, buông xả, tĩnh tâm, không lời, ngược lại với Tình-Đời là có, là động, sở hữu, thi phú.

 

Nói đến Ôn thì không thể không nhắc đến tác phẩm Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng của Ôn, mở đầu bằng:

“Khuyết nguyệt; đó là mảnh trăng non, là con trăng sơ huyền. Trăng của thời kỳ vừa chớm, và thơ cũng sẽ bắt đầu từ một cõi mộng đơn sơ. Những cái u sầu hay hoan lạc trong mỗi cuộc giao tình, phảng phất một ẩn ngữ cao kỳ. Ân tình cùng giao thoa trong tương ứng, nó đơn giản như hai với hai là một. Rồi từ đó sẽ mở ra một phương trời đọa đày viễn mộng. Cuộc tình tan rã, thì cuộc chơi đột ngột phơi bày trong tuế nguyệt. Bấy giờ là mùa thu; và tóc trắng tung bay trong cõi mộng kiêu hùng….

Thế thì, trong cõi thơ, trăng cũng kiêu hùng như gió ngàn bạt đỉnh. Từ đó, nhìn lại con trăng như sợi lông mày vắt ngang trên con mắt sầu mộng đăm chiêu; mảnh trăng non trơ vơ trên ngọn ngô đồng thưa lá: thơ là ẩn ngữ hay không là ẩn ngữ? Vừa ẩn ngữ, vừa không là ẩn ngữ: Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở; Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa mù khơi?

Thơ không là ẩn ngữ. Trong cuộc giao tình vừa khởi sự, cuộc thơ cũng phơi bày lồ lộ những nét thanh kỳ tú lệ; cũng lãng đãng như màn trăng trong những giọt sương lóng lánh; cũng tươi như nụ hồng vừa chớm nở; cũng trong ngọc trắng ngà như băng tuyết; và cũng trơ vơ như chiếc sao Hôm trong buổi hoàng hôn, tư lự như sao Mai giữa trời khuya ngất tạnh. Vậy, những cái đó không là ẩn ước hay ẩn mật; mà chính là những tâm tình được thổ lộ phơi trần, hoặc bằng lân la nay khóm trúc mai chồi lan; hoặc đột ngột như gió dục mây Tần. Tâm tình đã thổ lộ, thì cuộc giao tình thắm thiết mở ra. Bấy giờ mới là lúc:

 

Vén thanh sắc đổ mù khơi về đối diện

Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi

Trăng nằm xuống ruỗi dài hai bến hẹn

Một dòng sông vồn vã động chân trời »

 

Trong tác phẩm đó Ôn Tuệ Sỹ nói về Lô Sơn Chân Diện Mục để xóa tan chân lý Dị (khác) Đồng (giống) qua phần giới thiệu :

«Lô sơn là một danh thắng kỳ tuyệt. Núi non hùng vĩ, cảnh trí u trầm, mây

trắng và sương mù quanh năm bao phủ, từ bao nhiêu đời, nơi đó ẩn tích những

cao nhân đắc đạo. Tìm đến đó, để nhìn thẳng vào chân diện mục của Lô sơn,

là đã quyết tâm đoạn tuyệt với những vương vấn, buông lơi và thắt chặt,

từ mấy vạn đời trước. Thấy chỗ đó, là thấy Tâm Thiền. Nhưng Tâm Thiền thì

tịch mặc không nói. Một khi đưa lưỡi dao lên cắt đứt mớ tóc, đoạn tuyệt

hồng trần, thì cõi thơ sẽ mất một ngọn sao trời rọi sáng, cho khách tục tử

đang còn cặm cụi làm thơ. Nhà thơ phát tâm đại nguyện thượng thừa vác lên

vai vô số khổ lụy đoạn trường. Đại nguyện đó sẽ làm sáng lên cái chân lý Dị

và Đồng. Dị biệt và Đồng nhất là những con đường chia rẽ phân đôi; nhưng

đạt tới công án hiểm hóc của tử sinh, thì đã xóa tan chân lý Dị Đồng. Đó là

chỗ ta và người, tình và cảnh, đều trở thành tịch mặc Không Không. Từ đó,

nhà Thơ hẹn với nhà Thiền, mở ra cánh cửa bắc, cất đầu nhìn lên 36 ngọn núi

xanh kia»

 

Ôn Tuệ Sỹ nhắc đến bài thơ tứ tuyệt Thi hào Tô Đông Pha đề lên vách khi 

viếng Chùa Đông Lâm:

« Hoành khan thành lãnh trắc thành phong

Viễn cận cao đê các bất đồng

Bất thức Lô sơn chân diện mục

Chỉ duyên thân tại thử sơn trung

橫看成嶺惻成峰

遠近膏低各不同

不識盧山真面目

緣身在此山中

Lô sơn, được nhìn ngang, nó như một dải núi dài; nhìn nghiêng, lại thấy nó

là một ngọn núi cao. Nhìn thấy gần, hay xa, thấy núi cao hay núi thấp. Lô

sơn ẩn hiện thiên hình vạn trạng. Vậy thì, chân diện mục của Lô sơn làm sao

mà biết cho nổi? Cứ vào trong núi thì biết.

 

Một bài thơ khác, được truyền tụng thịnh hành trong giới Thiền tông, nói là

của ông. Nhưng không rõ ông làm lúc nào. Trong các tập thi văn của ông,

không thấy có. Bài thơ nói khá tinh tế về đạo Thiền, cũng khó biết rõ chân

diện mục như Lô sơn.

Lô sơn yên tỏa Triết giang triều

Vị đáo sinh bình hận bất tiêu

Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự

Lô sơn yên tỏa Triết giang triều

盧山湮鎖浙江潮

未到生平 恨不逍

到得還來無別事

盧山湮鎖浙江潮

Bài dịch thơ bằng tiếng Việt hay nhất (không nhớ dịch giả):

Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.

Khi chưa đến đó hận muôn vàn.

Đến rồi về lại không gì lạ.

Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang. »

 

Ôn kết thúc bằng đoạn văn như sau khi nói về Thi hào Tô Đông Pha:

“Tâm thiền không lời, cái đó ông hâm mộ rồi. Nó cũng trong phương trời viễn mộng của ông. Nhưng Đạo Thơ có lời, cũng là phương trời viễn mộng của ông. Không phải ông bị đày đọa vì bị ray rứt giữa hai đường. Cái đó dành cho tục tử, chứ không hề có nơi cốt cách cao kỳ tuyệt diệu như ông. Nhưng cả hai cái đó, thắt chặt rồi buông lơi, như một cuộc giao tình đến để rồi đi; cả hai đưa nhau, đẩy nhau, đưa đẩy mãi lên mấy từng trời cao diệu, trên những phương trời viễn mộng; đưa đẩy nhau cho đến cùng tuyệt càn khôn, trong bất động, trong vô ngôn; trong phương trời đọa đày viễn mộng. Thế thì, cái chỗ đọa đày viễn mộng đó cũng đơn sơ như cõi mộng ban đầu; ban đầu từ một gương mặt trong ngọc trắng ngà không son phấn, rã cánh hồng mà nụ vẫn còn tươi, cho tình lên cao vút với mây trời trong nắng sớm.

 

Tố diện thường hiềm phấn uyển

Tẩy trang bất thốn tàn hồng

Cao tình dĩ trục hiểu vân không

Bất dữ lê hoa đồng mộng

 

Sau hết, và như là bắt đầu, thấy lại nó đơn sơ như mảnh trăng non và như cây ngô đồng thưa lá. Cõi thơ, có đến và có đi, nhưng không hề có dấu vết. Một cánh chim nhạn, một cánh chim hồng ngoài ven trời vạn dặm”

 

Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật Thích Ca ví những điều Như Lai dạy như mưa rơi, mỗi cây cỏ cao thấp hấp thụ thấm nhuần khác nhau. Tôi cũng vậy, đọc thơ văn của Ôn Tuệ Sỹ mà khẳng định là mình hiểu thâm ý của Ôn thì chẳng khác nào người mù sờ voi, mải mê khư khư với ngón tay chỉ trăng mà quên vầng nguyệt vằng vặc tròn sáng.

Đọc những áng thơ văn của Ôn, tôi cảm thấy vừa quyến rũ, sâu lắng, an vui lạ thường, đó là điều tôi như cỏ non hấp thụ, tiếp nhận được từ những giọt mưa pháp mà thơ của Ôn luôn ấp ủ.

 

Con người mở mắt chào đời là em bé khóc oa oa, khóc vì sợ hãi, bỡ ngỡ và xa lạ, khóc vì tiềm thức nói đời là bể khổ. Nhưng liền sau đó mở to mắt hồn nhiên nhìn ánh mắt trìu mến và cảm được tình thương yêu trong vòng tay ấm áp của cha mẹ.

Em bé lớn lên trong tình gia đình và rồi sớm rời xa cha mẹ để đi tìm câu trả lời cho "mình là ai, hiện hữu để làm gì, tương lai ra sao, sao lại có sướng khổ, những cái nhị nguyên đối đãi, chết đi về đâu...".

Bên cạnh những nghi vấn, những khắc khoải, những hoài bão là thực tế của cuộc sống và nghiệp lực mà mình dù muốn hay không, bị cuốn hút vô, khi thì thuận buồm khi ngược sóng, lúc tấp bờ này lạc bến kia, và có những người nửa đường gãy cánh, ôm mối hoài nghi, hoài bão, sự nghiệp dang dở, hạnh phúc hay hận thù, ác mộng hoặc mộng đẹp xuống tuyền đài để rồi tiếp tục đi trong sanh tử tử sanh sáu nẻo luân hồi.

 

Ôn Tuệ Sỹ đến với thế gian này cũng vậy, chỉ khác là Ôn đến vì nguyện chứ không vì nghiệp cho nên khi cảm thấy sứ mạng đã hoàn thành thì Ôn ra đi nhẹ nhàng.

Cuộc đời của Ôn từ lúc sinh ra tại Paksé xứ Lào năm Ất Dậu 1945 đến lúc viên tịch ngày 24 tháng 11 năm 2023 tại Việt Nam, trải qua bao thăng trầm, thử thách, ngục tù, Ôn đã hiên ngang bất khuất trong tinh thần bất bạo động, thế hận thù bằng lòng từ bi hỷ xả, dốc lòng xả thân vì Đạo để hoằng dương Phật pháp qua dịch Kinh sách, mượn thơ văn và âm nhạc để tải đạo. Ôn là ngọn đuốc tuệ để soi đường cho Phật tử ra khỏi rừng u minh tà đạo, là hải đăng để hậu bối vượt biển mê về bờ giác, là tấm gương sáng ngời để chúng con noi theo và hết sức ngưỡng mộ.

 

Đức Phật Thích Ca nói: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Điều đó thể hiện trong nụ cười của Ôn Tuệ Sỹ luôn rạng rỡ trên đôi môi, trong ánh mắt và trái tim những năm tháng cuối đời, dù là trên giường bệnh, nụ cười ánh mắt hồn nhiên như trẻ thơ, cho đến hơi thở cuối cùng khi Ngài thâu thần thị tịch.

"Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng

Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều."

(Tuệ Sỹ: Tôi Vẫn Đợi)

Đời người từ lúc sanh ra cho đến khi lìa trần chẳng khác chi giấc mộng, có không, được mất chỉ như sương mai, ánh chớp, mây chiều.

Nhân kỷ niệm một tháng ngày Ôn Tuệ Sỹ về cõi Phật, tôi có hai bài thơ kính cúng dường lên Ngài.

 

TÔI VẪN ĐỢI

(Kính họa bài thơ cùng tên của Ôn Tuệ Sỹ)

Tôi vẫn đợi những đêm dài nhung nhớ

Bầu trời xanh mở mắt khóc chào đời

Trong bóng tối mẹ ru vào giấc ngủ

Trăng êm ả bé há miệng mỉm cười

 

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió

Màu đen tuyền của mắt huệ sâu xa

Nhìn trở lại tự tánh của muôn thuở

Ngược giòng sông chở tôi về quê Nhà

 

Tôi vẫn đợi suốt đời nhớ sóng cả

Nhớ những người đã xuôi ngược năm châu

Vì môi trường, cỏ cây và hoa lá

Vì tự do, dân chủ, ánh Đạo mầu

 

Rồi nhắm mắt ôm vào cả vũ trụ

Ngón tay lần chuỗi hạt nhớ A Di

Rồi mở mắt Ta dạo cõi Tịnh Độ

Như cam lồ, quang minh tỏa, tức thì.

2020-04-29 (Mộng Lệ An)

Dương Nghiệp Huân

 

TỈNH THỨC

Mở mắt chào đời bé khóc oa oa

Thâu thần thị tịch thốt ra "Thế à!"

mờ lũy kiếp luân hồi sanh tử

Tỉnh thức tức thì, Tịnh Độ liên hoa

Tuệ vốn sáng soi viên ngọc chéo áo

Sỹ phu vì Đạo nguyện há phai nhòa

Nguyên sơ diện mục bản lai là Phật

Chứng đắc nào giờ vốn dĩ hôm qua.

2023-12-25 (Mộng Lệ An)

Niệm Đức

 

Nhất tâm đảnh lễ tam bái:

Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Húy thượng NGUYÊN hạ CHỨNG, Hiệu TUỆ SỸ, đời thứ 44 Dòng Lâm Tế Chánh Tông và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán, Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN, Chủ tịch Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời, Cố vấn Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, đã viên tịch đúng 16 giờ chiều ngày 24-11-2023 (12-10-Quý Mão) tại Chùa Phật Ân Long Thành Đồng Nai, 46 Giới Lạp, trụ thế 79 năm.

"Hư Không Hữu Tận. Ngã Nguyện Vô Cùng"

 

Nguyện Giác Linh Ngài cao đăng Phật Quốc, hội nhập Ta Bà phổ độ chúng sanh, viên thành Phật đạo.

 

Nguyện cho thế giới hòa bình, ấm no, chấm dứt chiến tranh hận thù cùng bệnh tật, muôn loại sống trong tình thương yêu hài hòa, tâm từ bi hỷ xả, biến cõi Ta bà này thành Tịnh Độ Nhân Gian.

Kính chúc tất cả một năm mới 2024 và Xuân Di Lặc năm Giáp Thìn thân tâm an lạc, Bồ đề tâm bất thối và vạn sự cát tường như ý.

 

2023-12-28 (Mộng Lệ An)

Dương Nghiệp Huân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2020(Xem: 9331)
Bài viết này để bổ túc cho một băng video chủ đề Tuệ Trung Thượng Sỹ trên YouTube (1) do nhóm Wisdom Today thực hiện, trong đó Tiến sĩ Phật học Nguyễn Thúy Loan đã phỏng vấn Hòa Thượng Thích Phước Tịnh và bản thân người viết là Cư sĩ Nguyên Giác. Lý do bổ túc vì lời nói của người viết vốn vụng về, không có khả năng diễn ý minh bạch như chữ viết.
28/06/2020(Xem: 23552)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
25/06/2020(Xem: 5588)
Mùa Đại dịch 2020 này đã phá vỡ bao ước nguyện thầm kín nung nấu trong tôi . Đó là được đảnh lễ và tham vấn HT Thích Như Điển như lời Ngài hứa khả , sau khi tôi được chia sẻ vài cảm nghĩ của mình qua tác phẩm của Ngài “MỐI TƠ VƯƠNG CỦA HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA “. Những tưởng thời gian sẽ nhanh chóng trôi qua và cái ngày quan trọng ấy càng lúc càng đến gần hơn nhưng nay .... được thông báo sẽ được dời đến tháng 10/2021! Thật không ai có thể đoán được điều gì xảy ra vào năm 2020 này, và dường như Chư Hộ Pháp muốn tặng tôi một món quà ân thưởng để bù lại niềm hụt hẫng ấy và chắc chắn là để thưởng cho thiện niệm tôi luôn hướng về Ôn Phương Trượng như một danh Tăng và một điểm khá đặc biệt là không thể quên ngày sinh nhật Ngài khi đã hai lần chúc mừng Khánh Tuế ( 2018 -2019 ) . Chính vì thế khi xem lịch 28/6/2020 đúng là Khánh Tuế lần thứ 72 của Ngài bổng nhiên trong tôi ước nguyện đã khởi lên “ Bằng cách nào để viết hoặc một bài văn hay một bài thơ vào lúc này vừa có thể chúc mừng với tấ
25/06/2020(Xem: 8536)
HT tên thật là Phạm Văn Nghi, húy là Thượng Đồng Hạ Viên, tự là Thông Lợi, hiệu là Viên Đức. Sinh vào giờ Tỵ ngày 26 tháng chạp năm Nhâm Thân(1932). Quán làng Định Trung, xã An Định, Quận Tuy An, Tỉnh Phú Yên. Thân phụ của Hòa Thượng là cụ ông Phạm Giản. một bậc túc nho thời bấy giờ. Thân mẫu là cụ bà Ung thị Bình, một Phật tử thuần thành từ hồi bé. Ông nội của Hòa Thượng không những là một kẻ sĩ mà còn là một chiến sĩ trong phong trào Cần Vương kháng Pháp. Hòa Thượng chào đời và lớn lên ở Phú Yên một nơi địa linh nhân kiệt, không những vì đời đã sản sinh ra nhiều anh hùng liệt sĩ, mà về Đạo cũng là nơi đời đời nối tiếp xuất sinh nhiều vị Tăng tài kế truyền hoằng hóa giáo pháp của đức Thế Tôn. Non nước Phú Yên như phần nào nói cho ta điều đó. Ngoài dòng sông Ba yên bình chảy ra biển cả, Phú Yên còn có hai ngọn núi là là hòn Chuông và hòn Mõ, hình giống như hai pháp khí tu hành của nhà Phật , vì vậy vua Minh Mạng khi nói về đất Phú Yên đã khen ngợi:
20/06/2020(Xem: 9422)
Trưởng lão Hòa thượng thượng NGUYÊN hạ TỊNH tự LƯU THANH Đạo Hiệu NGÂN BÌNH. ( 1941-2020 ). Thuận thế vô thường thu thần viên tịch vào lúc 11h30 ngày 19 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 28 tháng tư nhuận năm Canh tý). Trụ thế : 80 năm Hạ lạp : 55 năm Tang lễ được cử hành theo chương trình như sau: - Lễ cung thỉnh nhục thân nhập kim quan: vào lúc 17h00 ngày 20 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng 04 nhuận năm Canh tý). - Kim quan tôn trí tại Tổ Đình Trúc Lâm, Tp. Huế. - Lễ phụng tống kim quan nhập bảo tháp tại Tổ Đình Trúc Lâm cử hành vào lúc 6h00 ngày 24 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 04 tháng 05 năm Canh tý).
10/06/2020(Xem: 6653)
Thân thế: Hòa Thượng Thích Minh Đạo, thế danh là Dương Văn Tam, Pháp danh Trừng Hữu, pháp tự Thiện Lộc, pháp hiệu Chơn Châu, sinh năm Quý Sửu 1913. Nguyên Quán tại Huyện Phú Quý ( thường gọi là đảo Phú Quý) Ngài theo song thân vào Xã Phan Rí Cửa, Quận Hòa Đa ( nay thuộc Huyện Tuy Phong) Tỉnh Bình Thuận để lập nghiệp.
26/05/2020(Xem: 8116)
Trước lúc nhập Niết bàn, đức Thế Tôn nói kinh Di giáo, tiên liệu cả hằng nghìn năm sau nên lời dạy của Ngài vô cùng thậm thâm vi diệu. Mỗi lời mỗi ý chứa đựng biết bao tình lý, mỗi lần đọc chúng ta nhận cảm trọn vẹn lời di giáo tha thiết của Ngài. Lời đi huấn của Hòa thượng Đôn Hậu để lại cho Thất chúng đệ tử mà có lẽ cũng cho tất cả chúng ta. Đến Linh Mụ không ai là không đọc lời Di Huấn này, kể cả những người không biết chữ cũng lắng tai nghe nhờ người khác đọc giúp. Điều đáng quan tâm là lời Di huấn này Hòa thượng viết từ năm 1988, bốn năm trước khi viên tịch, Ngài đã nhìn thấy rất rõ ràng những gì có thể xảy ra trong Tang lễ của Ngài và cần huấn thị lại cho minh bạch, và, cũng chính vì “Lời di huấn” này mà:
06/05/2020(Xem: 11580)
Tiểu sử Đức Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN – Đại Lão Hòa Thượng THÍCH TỊNH KHIẾT , Đệ nhất Tăng Thống - HT Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng thế danh là NGUYỄN VĂN KỈNH. Ngài sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (nhằm ngày 17.12.1891)(1) tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nay là thôn Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của ngài là cụ Nguyễn Văn Toán, thân mẫu là cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con thứ hai(2). Bào huynh là Hòa Thượng Trừng Hương – Tịnh Hạnh (chúng tôi chưa tìm thấy thế danh của ngài). Hòa Thượng Tịnh Hạnh sinh năm Kỷ Sửu, 1889; xuất gia năm Ất Tỵ, 1905; thọ Cụ-túc giới năm Canh Tuất, 1910; trụ trì chùa Tường Vân, Huế; viên tịch năm Quý Dậu, 1933.
06/05/2020(Xem: 18213)
Công đức hoằng khai nhiếp hóa của Ngài cao hơn núi cao Tấm lòng từ bi độ lượng của Ngài sâu hơn biển sâu Chữ nghĩa của trần gian làm sao phô diễn
05/05/2020(Xem: 24535)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]