Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Lần Gặp Gỡ Thầy Tuệ Sỹ-Tạo Nên Mối Thâm Tình

03/01/202414:51(Xem: 1698)
Những Lần Gặp Gỡ Thầy Tuệ Sỹ-Tạo Nên Mối Thâm Tình

NHỮNG LẦN GẶP GỠ THẦY TUỆ SỸ- TẠO NÊN MỐI THÂM TÌNH

Mọi người đều tôn vinh Ngài Tuệ SỸ là Trưởng lão Hòa thượng, nhưng tôi được xin phép gọi là Thầy Tuệ Sỹ, với niềm tôn kính, ấm áp, thương yêu. Bởi vì tôi đã gặp Thầy hơn 60 năm về trước, trong khuôn viên Trường Cao Đẳng Phật Học, do Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Hòa thượng Thích Nhất Hạnh sáng lập năm 1964 tại chùa Pháp Hội.

Lúc đó Thầy Nhất Hạnh giao cho tôi phụ trách Ban Tu Thư Phật giáo do Thầy chỉ đạo. Nơi ấy tôi đã sống những ngày thật hạnh phúc trong tình đạo vị. Thầy Nhất Hạnh đã chỉ dậy tôi rất nhiều trong nghiệp vụ thư ký, soạn thảo những văn bản, tác phẩm văn hóa, đạo học do các học giả từ ngoại quốc gửi về. Nơi đó tôi đã gặp các vị tu sĩ hiền hòa, thông minh như Thầy Châu Toàn, Thầy Thanh Tuệ, Thầy Thanh Văn…và Thầy Tuệ SỸ. Tôi gọi Thầy là Chú Tuệ Sỹ, bởi vì thân hình Chú gầy ốm, mặc bộ áo lam cũ, khuôn mặt nhỏ, chỉ có đôi mắt sâu thẳm, sáng quắc, lộ vẻ tinh anh. Thầy hiền và ít nói. Thỉnh thoảng Thầy có ghé bàn giấy tôi làm việc để gửi bài cho báo Hải Triều Âm. Tôi có ngồi nói chuyện với giáo sư Phạm Công Thiện vài lần (lúc đó thầy Thiện là Tăng Sĩ Phật Giáo). Thầy Thiện và Thầy Nhất Hạnh hay nhắc đến chú Tuệ Sĩ với những lời khen ngợi. Tôi cũng không quan tâm lắm đến chú Tiểu này.

Lần thứ hai tôi gặp Thầy Tuệ Sỹ ở trại cải tạo Hàm Tân, khi tôi vào thăm nuôi Thầy Đức Nhuận. Lúc đó tôi chỉ chào Thầy với ánh mắt kính ngưỡng, không nói được điều gì.

Lần thứ ba tôi gặp Thầy ở chùa Già Lam, -năm 2003- nhân ngày tôi đi viếng đám tang Ni sư Thích Nữ Trí Hải, tôi ghé thăm Thầy. Chúng tôi rất mừng khi gặp lại nhau, dù trước đó cả hai chưa hề nói chuyện với nhau.

Thầy cười rạng rỡ khi nhìn thấy tôi. Tôi chắp tay chào Thầy, câu đầu tiên tôi nói với Thầy:

-Thưa Thầy, trước đây con gặp Thầy ở chùa Pháp Hội, lúc đó con gọi Thầy là chú Tuệ Sỹ một cách thân thương. Bây giờ sau mấy chục năm, con vẫn thấy Thầy nhỏ con và gầy như vậy. Hôm gặp Thầy trong phiên xét xử ở Tòa Án, con rất kính ngưỡng và thương Thầy. Hôm nay gặp lại Thầy, con mừng lắm. Con vẫn muốn gọi Thầy là chú Tuệ Sỹ, để ghi nhớ mãi tình cảm kính trọng và ấm áp con dành cho Thầy. Thầy có vui lòng để con gọi Thầy là Chú Tuệ Sỹ không ?

Thầy cười rất tươi, gật đầu.

-Được lắm chứ. Tôi muốn trẻ mãi như ngày xưa ấy.

Thầy rót nước mời tôi. Thầy bắt đầu hỏi chuyện tôi:

- Sư cô xuất gia lâu chưa, sao không thấy sư cô Trí Hải nhắc về cô xuất gia.

Thưa Thầy, con xuất gia được năm năm rồi. Sư Ông Làng Mai đón con sang Pháp và thế phát cho con.

Pháp danh của con là Chân Y Nghiêm. Con về Việt Nam hơn một năm. Hiện giờ con cất cái Am ở Long Thành, con tiếp tục làm chương trình học bổng cho Tăng Ni và các cháu sinh viên học sinh nghèo hiếu học, ngoài ra chúng con giúp cho các cụ già cô đơn và các cháu mồ côi tàn tật.

Vẫn ánh mắt sáng rỡ, ẩn chứa tấm lòng độ lượng, khí phách của bậc thiền sư nhập thế, Thầy kể tôi nghe về Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, bậc Thầy đạo hạnh, chân tu.

-Thầy Đức Nhuận có kể cho Tôi nghe về cô Thuần, một phật tử kiên trung với đức Phật và Đạo Pháp. Cô ấy đã xả thân vào chốn pháp đình, làm đơn yêu cầu nhà cầm quyền đưa vụ án Phật Giáo ra xét xử, nhờ vậy họ mới đưa chúng ta ra tòa để kết án. Thầy nhắc đến sư cô Trí Hải, cô ấy gọi cô là: Thuần điếc không sợ súng.

Tôi cười, thưa Thầy:

-Con cũng sợ súng đạn lắm chứ, nhất là con sợ người ta đánh con đau. Nhưng con có niềm tin vào Đức Quan Âm, con tin Ngài sẽ che chở cho con. Mỗi lần gặp họ, con đã nhìn sâu vào lòng bàn tay, niệm chú Tâm Kinh Bát nhã, xin Ngài truyền cho con đức Vô úy và sự bình an, nhờ tâm chí thành mà con đã vượt qua bao hiểm nguy, thuyết phục được họ. Họ nói nhiều lần họ muốn bắt con để điều tra, nhưng thấy con chân thật, nghèo mà đông con quá, nên họ bỏ qua cho con.

Bây giờ con đã đạt được ước mơ đi xuất gia để giúp đỡ các trẻ mồ côi, con vui lắm. Con được làm học trò của Sư Ông Làng Mai, con thấy mình thật may mắn. Dù sống xa Thầy bổn sư, nhưng con vẫn cố gắng tu học, để mãi mãi con được làm đệ tử của Sư Ông.

Thầy lắng nghe tôi kể chuyện một cách hồn nhiên. Trước mắt Thầy, tôi vẫn như cô Thuần ngày nào làm Ban Tu Thư Phật Giáo, quanh năm mặc chiếc áo dài màu tím, nét mặt phảng phất buồn. Thầy kể tôi nghe những ngày tháng Thầy ở trong tù, tuy bị đày ải, nhưng tâm hồn Thầy vẫn bình an. Ngoài giờ lao động, Thầy vẫn ngồi thiền, quán tưởng về kiếp sống nhân sinh, Thầy vẫn sáng tác, làm thơ. Đời sống trong tù cũng có nhiều ý nghĩa, Thầy giúp được nhiều sỹ quan hướng về giáo lý uyên thâm của đạo Phật, chỉ họ ngồi thiền giải thoát nỗi đau….

Chúng tôi nói chuyện với nhau thật thà, như là tri kỷ. Thầy kể tôi nghe, trong thời gian Thầy bị Tù đày, những tác phẩm dịch thuật có giá trị của Thầy bị sang tên đổi chủ…Câu chuyện chúng tôi kể cho nhau nghe chân tình, tưởng chừng như không muốn chấm dứt. Nhưng sợ làm mất thì giờ của Thầy, tôi xin phép Thầy về. Vừa mời đứng lên thì, cơn mưa rào trút xuống, Thầy nhìn tôi cười, đọc câu thơ cổ:

“Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách”

Thế là tôi đành ngồi xuống tiếp tục câu chuyện với Thầy. Nói chuyện với bậc thiền sư khả kính, phóng khoáng như Thầy, tôi rất vui. Tôi đã được Thầy trao đạo lý đơn giản làm người, lý tưởng sống thanh cao, tinh thần vô úy trước những bất công, đối xử với con người. Tôi trân trọng lắng nghe những câu chuyện của Thầy, nó đơn giản, chân thật, cao thượng, giúp tôi thêm hành trang vào cuộc sống, tô điểm cho khu vườn quê hương thêm sáng lạn.

Lần thứ tư tôi gặp Thầy ở Đồi Thông Phương Bối.8/1/2007

chan y nghiem-on tue sy


Thời gian đó tôi lưu trú tại TP Bảo Lộc, trồng cà phê, sống ẩn tu, hạn chế tiếp xúc với mọi người. Điện thoại chú Lão, con trai út của ông Nguyễn Đức Sơn, báo tin, chú sẽ chở Thầy Tuệ Sỹ đến thăm tôi. Tôi trả lời chú:

Không được đâu, chú đừng chở Thầy đến đây. Tôi sẽ nhờ Tâm Không chở tôi đến thăm Thầy ngay sáng nay.

Tâm Không chở tôi đến gặp Thầy. Thầy vẫn ngồi trên đồi thông đợi tôi. Sau bao năm xa cách, phút giây hội ngộ thật cảm động. Tôi cúi đầu chào Thầy, rồi ngồi xuống chiếc chiếu manh trên thảm cỏ. Cả hai chúng tôi đều yên lặng. Những hàng thông cao vút đứng yên giữa bầu trời xanh, xuyên qua kẽ lá những cụm mây trắng bay. Tia nắng ban mai lấp lánh trên từng vạt cỏ chen lấn gốc thông già. Tôi nhìn Thầy thật lâu, vẫn thân hình xương xương, đôi mắt ngời sáng vẻ xa xăm, từ ái, vầng trán trí tuệ trên khuôn mặt bậc thiền sư, thoáng chút lãng tử.

Tôi mở lời trước:

-Thưa Thầy, đã lâu rồi, hôm nay con thấy Thầy vẫn như ngày xưa, không mấy thay đổi.

-Thì tôi vẫn là sư chú đó thôi. Thầy cười, nét mặt rạng rỡ trong sáng, như bầu trời Phương Bối sáng nay


Hai Thầy trò chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều. Chuyện xưa, chuyện nay, chuyện văn học, thơ ca, chuyện đời sống nhân sinh, chuyện về những tác phẩm Thầy mới dịch xong, nhiều đến nỗi tôi không nhớ nổi. Duy chỉ có một điều tôi nhớ mãi đến bây giờ:

-Thưa Thầy, năm 2005, Thầy Nhất Hạnh về thăm Việt Nam, Thầy có biết không.

-Lúc đó tôi nhập thất không hay biết chuyện gì xảy ra bên ngoài.

-Thời gian sau Thầy Nhất Hạnh cùng vài đệ lớn đến thăm Thầy, mà Thầy không tiếp.

-Lúc đó tôi vẫn còn đang nhập thất, tôi không thấy ai báo cho tôi biết. Nếu tôi biết Thầy Nhất Hạnh đến thăm, tôi sẽ xả Thất để gặp Thầy, vì Thầy là bậc ân sư, tôi rất kính trọng.

Nỗi hoài nghi, băn khoăn đã buông xả hết trong tôi. Tôi không tin những bậc Chân Sư tôi kính trọng lại còn vướng mắc những rắc rối thế gian mà quên đi tình Thầy trò Huynh đệ.

Lần gặp Thầy thứ năm chiều ngày 9/1/2007

Như còn nhiều điều chưa thông tỏ, chiều hôm sau tôi nhờ Tâm Không chở tôi đến Phương Bối gặp Thầy.

Thầy vẫn ngồi trên manh chiếu bên gốc thông già đợi tôi. Đôi mắt Thầy ẩn chứa niềm vui.

Tôi chắp tay chào Thầy rồi ngồi xuống, cả hai chúng tôi đều im lặng. Cái giây phút im lặng ngọt ngào, thấu hiểu tâm tư trong sáng, như mây trắng bay xuyên qua cành lá thông xanh, thật hạnh phúc.

Thầy kể tôi nghe ngày còn nhỏ, vào chùa nhìn thấy đức Phật nét mặt Ngài bình an, giải thoát, Thầy muốn đi tu. Bố mẹ Thầy không cho phép, nhưng Thầy vẫn thường đến chùa tụng kinh, ngồi thiền. Sư trụ trì khuyên bố mẹ Thầy nên cho Thầy xuất gia do Thầy có căn duyên sâu dày từ những kiếp trước. Thấy Thầy thông tuệ, làu thông kinh sách, Sư Trụ Trì khuyên bố mẹ Thầy nên về Việt nam, trao gửi Thầy cho những vị cao Tăng Thạc Đức hương dẫn Thầy tu học.

Năm 1961, 16 tuổi, Thầy thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thích Hành Trụ tại Sài Gòn.

Năm 1964, Thầy theo học trường cao đẳng Phật học chùa Pháp Hội và năm đó Thầy gặp cô thư ký Ban Tu Thư Viện Đại học Phật Giáo. Thật không ngờ, năm 1987, cô ấy lại xả thân làm đơn kêu gọi nhà nước đưa Vụ Án Phật Giáo ra Tòa. Rồi chiều nay, 2007, lại được gặp cô ấy trong Rừng Thông Phương Bối, kể chuyện ngày xưa. Thầy đọc hai câu thơ cổ:

Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ.

Vô duyên đối diện bất tương phùng.

Lần gặp mặt chiều nay chúng tôi ít nói chuyện, chỉ ngồi lặng im nghe tiếng thông reo. Rừng thông Phương Bối rất thơ mộng, mang nét thiền tĩnh lặng. Gia đình ông Nguyễn Đức Sơn đã đổ nhiều mồ hôi, công sức và cả máu nữa để gây dựng, gìn giữ đồi thông thánh địa này. Tôi gọi là Thánh Địa, bởi vì nó được xây dựng bằng tâm huyết, sức lao động và niềm ước mơ của Thầy Nhất Hạnh.

Năm 1959, Thầy mua miếng đất 25 mẫu này với ý định sẽ tạo nên một Rừng Thiền, mời các vị thiền sư, các vị thức giả về đây cùng nghiên cứu tu học. Thầy sẽ xây dựng một Tăng Đoàn mới, gồm các vị tu sĩ trẻ, tu học pháp môn Thiền Chánh Niệm, hành trì nghiêm mật, có mặt trong từng bước chân, trong lúc rửa chén, quét nhà, luôn tỉnh giác mọi lúc, mọi nơi trong phút giây hiện tại. Thầy sẽ xây dựng Tăng Thân cư sĩ, học hỏi giáo lý của đức Phật Thích Ca. Thầy sẽ tổ chức những khóa tu cho sinh viên, học sinh, hướng dẫn các bạn ấy có một lý tưởng sống vị tha, hiếu thuận với ông bà, cha mẹ và giúp ích cho xã hội…

Lý tưởng cao đẹp chưa kịp thực hiện thì chiến tranh tàn khốc xảy ra. Thầy phải rời bỏ quê hương, và sống lưu vong từ đó.

Gia đình ông Nguyễn Đức Sơn có duyên may được tiếp nhận khu rừng thông này, từ đó họ khai thác trồng thông, gìn giữ mảnh đất rừng với bao nhiêu công sức gian khổ để có được khu rừng thơ mộng như bây giờ. Tác phẩm Nẻo Về Của Ý, Thầy Nhất Hạnh đã diễn tả những xúc cảm chân thực của Thầy, về Phương Bối Am như rừng thánh địa, một huyền thoại văn học tâm linh. Những năm trước, sư cô Chân Không nhờ con về đây, giúp đỡ gia đình ông Sơn. Nên con thường xuyên lui tới, con coi bà vợ ông Sơn và các cháu như người thân thương. Nhờ cháu Lão mà con giữ được sự liên hệ với Thầy. Tất cả vạn sự do nhân duyên kết nối. Con cảm ơn Trời Đất đã cho con được gặp gỡ Thầy.

Nét ngời sáng, giọng nói mang âm hưởng miền Trung, Thầy kể tôi nghe nhiều chuyện buồn vui của nếp sống thiền môn, những thao thức của Thầy về đạo pháp, về quê hương đất nước. Tôi cũng đã từng có những thao thức ấy, nên chúng tôi hiểu nhau, dễ cảm thông tâm ý nhau, như dòng sông chảy về một hướng. Nhìn vạt nắng đã ngả màu, tôi xin phép Thầy ra về. Thầy đứng lên tiễn tôi ra mé rừng. Nhìn Thầy thật lâu, tôi nói:

Đối với con, Thầy là bậc Chân Nhân. Thầy cho phép con được viết về Thầy.

Thầy nhìn tôi, cười nhẹ, gật đầu.

Đó là lần cuối, tôi gặp Thầy. Nhưng hình ảnh Thầy mãi ở trong tôi, chưa bao giờ là lần cuối.

Tháng 12-2023.

(Trích từ Hồi Ký Chân Y Nghiêm- NHƯ MỘT DÒNG SÔNG)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 3810)
Hòa Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009) - Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa - Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương - Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
20/10/2019(Xem: 4748)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
20/10/2019(Xem: 2328)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5436)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5086)
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
20/10/2019(Xem: 4412)
Hòa thượng Phước Hậu, pháp húy Trừng Thịnh, pháp tự Như Trung, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Ngài thế danh Lê Văn Gia, sinh năm Bính Dần(1866), nhằm Tự Đức thứ 15, tại xã An Tiêm, huyện Đồng Quan, tỉnh Thái Bình.
20/10/2019(Xem: 5621)
Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc). Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa di ni.
20/10/2019(Xem: 4172)
Quốc sư tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, ông bà đều là những Phật tửthuần thành. Năm 12 tuổi (1881), Ngài được cha mẹ cho phép xuất giatại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.
20/10/2019(Xem: 4471)
Hòa Thượng Thích Mật Thể (1912 - 1961) Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
26/09/2019(Xem: 23046)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:[email protected]) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]