Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điện Thư Phân Ưu kính gởi Môn Đồ Pháp Quyến của Ni Trưởng Thích Nữ Chơn Hiền (1930-2023)

25/03/202319:54(Xem: 2527)
Điện Thư Phân Ưu kính gởi Môn Đồ Pháp Quyến của Ni Trưởng Thích Nữ Chơn Hiền (1930-2023)
Phat Di Da
su ba chon hien 001
su ba chon hien-02

hoa_sen (4)

1- su ba chon hien
2- su ba chon hien


su ba chon hien 001

TIỂU SỬ
NI TRƯỞNG THƯỢNG TÂM HẠ ĐỨC, TỰ CHƠN HIỀN

TRÚ TRÌ CHÙA DIỆU VIÊN, CHÙA DIỆU HỶ, HUẾ


I. THÂN THẾ
Ni trưởng Pháp danh Tâm Đức, Pháp Hiệu Thích Nữ Chơn Hiền, thế danh Phạm Thị Hồng Diên, sinh ngày 05 tháng 05 năm 1930 tại Triều Sơn Tây, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Nguyên quán Phò Trạch, Phong Điền, Thừa Thiên Huế.
Ni Trưởng được sinh trưởng trong gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ Ông Phạm Bá Hoài, pháp danh Nguyên Ân, tự Bá Kích. Thân mẫu là cụ bà Đinh Thị Thoan, pháp danh Nguyên Đức, tự Ngọc Thố. Ni trưởng là người con thứ 2 trong gia đình có 5 chị em.

II. XUẤT GIA TU HỌC
Vốn có túc duyên với Phật pháp, thừa hưởng đức tính hiền hoà, từ ái của hai đấng sinh thành, nên hạt giống thiện đã có trong Người từ rất sớm. Ngay từ thuở hoa niên, Người đã luôn nhận chân được cuộc đời là giả huyễn, thân mạng vô thường, như nước chảy hoa trôi, ý chí mong tìm cầu an lạc, giải thoát.
Năm 1950, Người xin phép cha mẹ xuất gia và được Ngài Hộ Nhẫn hướng dẫn vào Huế, cầu làm đệ tử Sư Trưởng Thích Nữ Hướng Đạo, trú trì chùa Sư Nữ Diệu Viên. Mặc dù, cảnh chùa bấy giờ còn hoang sơ, nhưng với tâm thiết tha học đạo, chí nguyện kiên định, Ni Trưởng vẫn chọn nơi đây làm chỗ dừng chân tu học, được Bổn Sư cho thế độ, Người tinh tấn chuyên cần công phu thời khoá, chấp lao phục dịch và chấp hành thanh quy trong chốn thiền môn một cách nghiêm mật,
Năm 1951, Ni trưởng được thọ giới Sa di Ni tại Chùa Diệu Viên- Huế dưới sự chứng minh của cố Hoà Thượng Vĩnh Thừa, trú trì chùa Châu Lâm. Lúc đó có thêm cố Ni trưởng Thích Nữ Chơn Thông và Cố Ni trưởng Thích Nữ Chơn Nguyên, cùng lãnh thọ giới pháp. Một năm sau, Người được Bổn Sư cho phép nhập chúng tại Ni viện Diệu Đức, cùng đại chúng hàm dưỡng nội điển, ngoại điển và vun bồi đức hạnh.
Năm 1953, Ni trưởng thọ giới Thức xoa ma na tại Ni viện Diệu Đức.
Năm 1958, được cố Hoà Thượng Trí Thủ khuyến tấn, Ni trưởng lãnh thọ cụ túc giới. Được Bổn sư và đại chúng cho phép, Ni trưởng vào Phật học viện Nha Trang, thọ giới tại đại giới đàn Phước Huệ.

III. PHẬT SỰ VÀ HÀNH ĐẠO
Trải qua thời gian tu học và hành trì giới luật, năm 1961, Ni trưởng vâng lời Bổn sư trở về chùa Diệu Viên, đảm nhiệm hiệu trưởng trường Lâm Tỳ Ni và lớp sơ học miễn phí, Ni trưởng luôn chu toàn bổn phận và trách nhiệm mà quý Sư bà giao phó.
Đến năm 1967, thừa lệnh Chư Tôn đức ban Trị Sự giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất và Ni bộ Bắc Tông, Thừa Thiên Huế, Ni trưởng đảm nhận chức Trú trì chùa Diệu Hỷ (do phủ Hoàng Hoá Quận Vương- Phủ Tôn Nhơn thành lập) để tu tập và chăm lo Phật sự. Lúc này ngôi Bảo điện còn đơn sơ, nhỏ bé, nhưng trải qua một thời gian, với bản tính năng động linh hoạt, Ni trưởng đã biến nơi đây thành ngôi Phạm vũ trang nghiêm, tiến hành công việc xây dựng, Ni trưởng luôn nhịp nhàng theo từng bước đào tạo Ni chúng. Với đệ tử, lúc nào Người cũng dùng lời hoà ái, nhã nhặn, nhưng không kém phần uy nghiêm. Vì thế Ni chúng đến tu học ngày một đông. Chính nơi đây, Người đã tiếp độ Chư Ni, có những vị đệ tử đóng góp cho sự nghiệp hoàng pháp lợi sanh của tỉnh nhà. Đối với sự tu tập, Ni trưởng rất nghiêm mật và tinh tấn, Người luôn nghiêm khắc với chính mình, tôn trọng thanh quy của chúng. Người luôn căn dặn đệ tử: “ Các con nên nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu tập, để xứng đáng là những hành giả của Như Lai.”
Đối với Chư Tăng, Người luôn cung kính và tôn trọng Bát kỉnh pháp. Dù bận nhiều Phật sự tại Bổn tự, nhưng Người luôn nhất hướng tu tập, khát khao tầm học với các bậc trưởng thượng. Năm 1969, Người lên Đại Ninh nhập thất và tu học dưới sự hướng dẫn của Hoà Thượng Thích Thiền Tâm. Một thời gian sau, trở về lại Bổn tự, lo hướng dẫn Ni chúng tu tập và xây dựng hậu đường, nhà chúng, có nơi cho Ni chúng an trú.
Năm 1972, đất nước bị chiến tranh khốc liệt, đồng bào lâm vào cảnh tang thương. Ni Trưởng đã cùng với cố Ni trưởng Cát Tường tham gia cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Người đã không từ nguy hiểm, mệt nhọc của bản thân để làm việc cứu tế. Hình ảnh của Ni trưởng cũng như quý Sư trưởng trong đoàn, quên mình vì sự sống còn của các nạn nhân, là minh chứng hiện thân cho tâm hạnh Bồ Tát, đi vào cuộc đời.
Khi Phật sự chu toàn tại bổn tự cũng như hoạt động bên ngoài, Người lại vào Bà Rịa Vũng Tàu để theo học Thiền với Hoà Thượng Thanh Từ, tại Thiền viện Chơn Không, Người đã chuyên tâm tu tập, học pháp một cách chuyên cần. Sau hai năm tu học, Ni trưởng trở về Diệu Hỷ, tiếp tục dạy dỗ đệ tử và chăm lo Phật sự.
Năm 2005, sau khi cố Ni trưởng Chơn Nguyên viên tịch, Ni trưởng đã đảm trách chức vụ trú trì chùa Diệu Viên.

Với tâm nguyện, “truyền đăng tục diệm” Ni trưởng đã từng được cung thỉnh làm Đàn đầu, Đệ nhất tôn chứng, Yết ma A xà lê cho các đại giới đàn vào những năm 2000- 2019 để truyền trao giới pháp cho đàn hậu tấn Ni lưu.

Năm 2000, Ni trưởng được cung thỉnh làm Đệ nhất tôn chứng, tại Đại giới đàn Tịnh Khiết, tổ chức ở tổ đình Tường Vân.
Năm 2005, Ni trưởng được cung thỉnh làm Tôn chứng đệ nhất tại đại giới đàn Giác Nhiên, tổ chức ở tổ đình Thuyền Tôn.
Năm 2010, Ni trưởng được cung thỉnh làm đệ nhất tôn chứng, tại đại giới đàn Minh Hoằng, tổ chức ở tổ đình Từ Đàm.
Năm 2013, Ni trưởng được cung thỉnh làm yết ma A xà lê tại đại giới đàn Liễu Quán, tổ chức ở Từ Đàm.
Năm 2016, Ni trưởng được cung thỉnh làm Hoà thượng đàn đầu Ni tại đại giới đàn Giác Phong, tổ chức ở chùa Báo Quốc.
Năm 2019, Ni trưởng được cung thỉnh làm Hoà thượng đàn đầu Ni tại đại giới đàn Trí Thủ, tổ chức ở chùa Báo Quốc.

Ngoài ra, Ni trưởng còn được cung thỉnh vào hàng chứng minh của Phân ban Ni giới trung ương và Phân ban Ni giới tỉnh Thừa Thiên Huế.

Theo dòng chảy của thời gian, niên lạp của Người ngày thêm lớn, sắc thân tứ đại dù bị hao mòn vì bệnh duyên, nhưng Người vẫn rất minh mẫn, trên môi luôn nở nụ cười hiền hậu, từ ái. Mỗi khi gần Người, nhìn thấy nụ cười ấy, chúng ta như được chở che dưới bóng cây đại thụ bình yên. Có những ngày Bố tát, tụng giới, dù không được khoẻ, nhưng Ni trưởng vẫn có mặt với đại chúng. Với dáng dấp uy nghi, sau tấm áo ca sa nhẹ nhàng thanh thoát, lúc nào Người cũng khuyến khích, động viên Chư Ni thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, vững bước trên con đường tu tập, xứng đáng là Nữ tử của Đức Như Lai.
Sau một thời gian lâm bịnh, Sư đã xả báo an tường vào lúc 01h ngày 25 tháng 03 năm 2023 (nhằm ngày 04 /02 nhuận Quý Mão), với 94 tuổi đời và 65 hạ lạp.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Từ Hiếu pháp phái, Diệu Viên, Diệu Hỷ trú trì, Huý Thượng Tâm hạ Đức, hiệu Chơn Hiền giác linh Ni trưởng tôn sư thùy từ chứng giám.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2012(Xem: 20383)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6236)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8622)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5671)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19220)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9560)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6055)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6848)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6325)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
21/03/2012(Xem: 6437)
Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lãnh vực phật sự khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]