Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mừng Phật Đản (HT. Thích Thiện Châu giảng giải, Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202308:01(Xem: 1605)
Mừng Phật Đản (HT. Thích Thiện Châu giảng giải, Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

Phat Dan Sanh 30MỪNG PHẬT ĐẢN

HT. Thích Thiện Châu giảng giải
Phật tử Diệu Danh diễn đọc


 

 

 

 

Phật Đản là lễ quan trọng nhất trong năm của Phật tử bởi vì chính vào ngày trăng tròn tháng tư ta (Vesak) này, Phật đã ra đời, đắc đạo và viên tịch.

Không những ở Việt Nam mà khắp nơi trên thế giới, Phật tử và những người yêu chân lý đều mừng Phật Đản.

Với lòng kính mến và biết ơn của học trò đối với Thầy, chúng ta làm lễ tưởng nhớ Phật. Để cho lễ kỷ niệm hôm nay thêm ý nghĩa, chúng ta sẽ nhắc lại một vài nét lớn về cuộc đời và đạo lý của Phật. Rồi từ những nét ấy, chúng ta rút ra những điểm có thể giúp ích cho công việc tu dưỡng con người và cải tạo xã hội trong cuộc sống hiện nay.

 

ĐÓA SEN TRẮNG

 

Cách đây khoảng hơn 2600 năm, dưới chân núi Himalaya, trong vườn hoa Lumbini, một vị giác ngộ ra đời. Đó là thái tử Tất Đạt Đa  (Siddhârtha) con vua Tịnh Phạn (Sudhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Mâya). Tất Đạt Đa rất tuấn tú và thông minh  nên lúc lớn khôn thường tỏ ra không vừa ý về cuộc đời.

Vào một buổi sáng mùa xuân, theo cha ra đồng để dự lễ khai mùa, trời nắng Tất Đạt Đa ngồi dưới bóng cây nhìn ra đồng. Vua Tịnh Phạn, tay cầm cây nạm ngọc, đi theo đôi bò kéo lưỡi cầy. Trên những tảng đất nâu đen vừa được lật lên bày ra những con trùng ướm máu, đứt khúc. Bay nhảy theo luống đất, những con sáo đen tranh nhau mổ ăn những con trùng đang quằn quại tìm nơi ẩn trốn. Cảnh tượng này làm cho Tất Đạt Đa đau lòng vì qua nó Tất Đạt Đa thấy một phần nào sinh hoạt khổ đau mà con người, vì si mê tham tàn, gây ra cho nhau.

 

Thao Thức

Dự lễ về, Tất Đạt Đa không còn để ý tới cảnh sống hoa lệ giả tạo trong cung điện nữa, và trở nên trầm tư hơn trước. Tất Đạt Đa thường hỏi các giáo sĩ Bà La Môn về nguyên nhân của khổ đau và phương pháp diệt trừ. Những câu trả lời đầy thần quyền, thiếu lý lẽ của họ như (1) đau khổ là sự trừng phạt của thần linh, muốn hết khổ đau thì phải tế lễ, (2) đau khổ là sự rủi ro hay vì số phận không sao tránh đuợc, (3) đau khổ chỉ là kết quả của hành động đời trước, v.v... không làm sao cho Tất Đạt Đa thỏa mãn. Vì thế Tất Đạt Đa càng thao thức, ưu tư và quyết tìm cho ra chân lý.

Để ngăn chặn sự ra đi của con, theo lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư Đà (Asita), vua Tịnh Phạn cho xây thêm nhiều cung điện tráng lệ và cưới công chúa Gia Du Đà La (Yasodharâ) cho Tất Đạt Đa.

Tuy nhiên, sau khi dạo chơi ngoài thành và gặp thêm những cảnh già nua, ốm đau, chết chóc, Tất Đạt Đa càng hiểu rõ hơn sự thật của cuộc đời. Và hình ảnh tự tại sáng suốt của một tu sĩ ở cửa thành thứ tư giúp Tất Đạt Đa quyết định xa gia đình, từ bỏ ngôi vua đi tìm chân lý.

 

Đi và đến

Trong một đêm tối, Tất Đạt Đa vượt thành ra đi và trở thành một đạo sĩ, Đạo sĩ dòng Sâkya (Sâkyamuni) đi khắp nơi trong miền Bắc Ấn để tìm Thầy học đạo. Sâkyamuni đã gặp được những vị Thầy có tiếng như Ca La Ma (Kâlâma) và Uất Ra Ca Ram Ma Pút Ra ( Udraka Râmaputra), song cũng không tìm được lời giải đáp, Sâkyamuni bèn tu theo phương pháp khổ hạnh suốt sáu năm trời. Lối tu ép xác này chỉ làm cho thân thể tiều tụy, tinh thần suy kém cho nên Sâkyamuni trở lại ăn uống bình thường.

Cuối cùng, Sâkyamuni đi đến một gốc Pipal (bây giờ gọi là cây Bồ đề) và thiền định (tập trung tâm trí và suy xét sự thật về con người và vũ trụ) tại đó. Đoán biết Sâkymuni sắp đắc đạo Ma Vương (Mara) sai thủ hạ đến quấy phá và dụ dỗ. Những trò gian ác quỉ quyệt của Ma Vương không dối gạt được Sâkyamuni. Sau khi hàng phục Ma Vương, hiện thân của tham, sân, si, Sâkyamuni tìm thấy sự thật về con người và vũ trụ, giải thoát mọi ràng buộc khổ đau và thành Phật. Đương thời gọi là Phật Cồ Đàm (Gotama) hay Phật Thích Ca (Sâkya).

 

An vui

Điều phát kiến quan trọng của Phật trong lúc đắc đạo là nguyên lý "duyên khởi" (paticcasamuppada), được tóm tắt trong bài kệ sau đây:

"Khi cái này có thì cái kia có,

                             Cái này sanh thì cái kia sanh,

  Khi cái này không thì cái kia không,

  Cái này diệt thì cái kia diệt,"

Nguyên lý này nói lên sự thật liên hệ  đến cuộc sống khổ đau và an lành của con người: khổ đau không hề do thần linh gây nên, không phải là sự rủi ro hay số phận, cũng không phải do hành động đời trước tạo nên, mà do nhiều điều kiện xấu ác trong, ngoài, gần, xa, nằm ngay nơi con người và xã hội loài người; khi nguyên nhân xấu ác bị tiêu diệt thì khổ đau cũng mất. Trái lại an vui cũng do nhiều điều kiện tốt lành tạo ra chứ không phải là ân huệ của thần linh, không phải là may mắn hay số phận , và cũng không phải chỉ lả kết quả của phước đức đời trước; khi nguyên nhân tốt lành hội đủ thì an vui xuất hiện.

Sâu hơn, khổ đau căn bản của chúng sanh đã là sản phẩm của vô minh, ràng buộc thì an lành phải là kết quả của giác ngộ, giải thoát

 

Bốn chân lý

Sau khi xác định rằng con người có thể hướng thiện và hướng thượng, Phật đi sang Ba La Nại (Varanasi) để giác ngộ cho năm người bạn cùng tu ngày trước, Phật giảng cho họ biết muốn giác ngộ giải thoát trước hết phải xa lìa hai lối sống cực đoan: đắm say dục lạc, khổ hạnh ép xác; phải nhận định, tu dưỡng theo bốn chân lý cao thượng: biết rõ (1) khổ đau (dukkha) là do (2) tham ái (tanhâ), thể hiện trong mọi sinh hoạt ích kỷ nơi cá nhân và xã hội  (biệt và cộng nghiệp), gây nên, muốn (3) an vui (nirvâna) thì phải tu dưỡng theo (4) tám chánh đạo:

1)    Hiểu biết chân chánh;

2)    Suy nghĩ chân chánh;

3)    Nói năng chân chánh;

4)    Hành động chân chánh;

5)    Nuôi sống chân chánh;

6)    Siêng năng chân chánh;

7)    Nhớ tưởng chân chánh;

8)    Thiền định chân chánh.

Sau khi nghe Phật giảng, năm người bạn cùng tu ngày trước hứa nguyện theo Phật và như vậy là có Tăng đoàn, Phật tiếp tục giảng dạy thêm khiến họ trở thành những người có thể dắt dìu kẻ khác. Trong buổi giảng thứ hai và buổi lễ tiếp theo, Phật giảng cho họ thấy rõ không hề có một linh hồn bất tử hay bản ngã thường còn, điều khiển thân thể mà sự sống con người là một tổng hợp của năm yếu tố (uẩn, khandha) hay hai thành phần tâm vật (nâmarupa), những yếu tố này cũng là những tổng hợp ảnh hưởng lẫn nhau và không thể tách rời. Như vậy con người, cũng như mọi vật, hiện hữu nhưng không có bản thể đồng nhất, cố định và thường còn (vô ngã = insubstantiel, anâtta), vì thế luôn luôn thay đổi, biến chuyển (vô thường = impermanent, anicca). Cuộc đời không phải là vũng nước đọng mà là giòng thác đổ.

Bởi vì sự vật do duyên khởi, nên cuộc sống là cái gì gồm những chằng chịt quan hệ qua lại (một là tất cả, tất cả là một). Như vậy không ai có thể sống một mình mà không cần kẻ khác. Nương nhau, giúp nhau mà sống trở thành quy luật cho sự sống còn. Con người vốn là vô ngã thì cố chấp vào cái ta và sở hữu của ta để tiêu diệt và bóc lột kẻ khác là không hợp lý tình. Nguyên lý vô thường (nhưng tương tục) nói lên ý nghĩa con người xấu ác có thể chuyển thành tốt lành. Xã hội khổ đau có thể trở nên an lạc.

 

Chống lại chế độ đảng cấp

Nhờ sự hướng dẫn sáng suốt của Phật mà Tăng đoàn ngày càng đông. Khi Tăng đoàn đã đông, Phật khuyến khích mỗi người đi mỗi ngã để truyền bá chân lý. Cùng với Tăng đoàn, Phật đi khắp lưu vực sông Hằng (Gange) giáo hóa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Những ai có thể chịu đựng gian khổ và đủ khả năng dắt dìu kẻ khác, ngay cả những người mà xã hội bấy giờ cho là hạ tiện, đều được thâu nhận vào Tăng đoàn. Những người muốn hướng thiện đều được chấp nhận làm Phật tử tại gia và được giúp đỡ để trở thành những người tốt đẹp, ích lợi cho gia đình và xã hội.

Suốt 45 năm, Phật tận lực phá bỏ những tín ngưỡng thần quyền vu vơ, chỉ rõ những sai lầm khuyết điểm của các lý thuyết thiếu sáng suốt, cải tạo những tập tục xấu hại như giết súc vật để cúng tế, mạnh dạng chống lại chế độ đẳng cấp lạ kỳ bắt nguồn từ kinh điển Bà La Môn, và chỉ cho người nhận rõ và khai triển khả năng giác ngộ giải thoát của chính mình mà không cầu xin nơi ai khác. Phật cũng khuyến khích mọi người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, bình đẳng, và thực hiện an lành ngay ở đây và bây giờ.

Trên đường giáo hóa, Phật dừng nghỉ tại rừng Sa La ở Kusinagara. Sau khi ân cần khuyên dạy đệ tử lần cuối cùng: "Sự vật giả hợp đều phải hoại diệt, nên tinh tấn thực hiện lý tưởng", Phật an nhiên viên tịch (parinirvâna) vào lúc 80 tuổi. Phật lịch 2520 là kể từ năm này.

Như vậy, Phật không phải là Thượng Đế toàn năng tạo dựng loài người và cai quản vũ trụ, cũng không phải là sứ giả của thần linh mà là một người biết thao thức về khổ đau của con người, không chấp nhận oai quyền của thần linh, không tin tưởng kinh điển và giáo sỹ Bà La Môn, hy sinh cuộc sống vua chúa, phát triển tận cùng trí tuệ và giải thoát hoàn toàn mọi khổ đau. Có thể nói Phật là một người với ý nghĩa cao quí của nó: một đóa sen trắng.

 

Theo dấu người xưa

Sau Phật và bây giờ có rất nhiều người mong muốn được giác ngộ giải thoát như Phật. Họ là những chồi sen, hoặc còn nằm dưới bùn hoặc còn trong nước, đang cố vươn lên khỏi bùn khỏi nước để cho đời sắc hương. Họ là Phật tử mà không phải là "tín đồ của một tôn giáo thần quyền nào".

Học tập kinh nghiệm của Phật và của những người sau Phật (còn được giữ gìn trong ba tạng kinh điển này trong truyền thống), Phật tử, nhất là Phật tử tại gia, ngày nay, tùy theo khả năng và môi trường sinh sống, có thể lựa chọn và áp dụng những đạo lý trong sáng và thực dụng hoặc cho lý tưởng cứu cánh - giác ngộ, giải thoát hoàn toàn như Phật - ,hoặc cho lý tưởng phổ biến - tu dưỡng con người, xây dựng xã hội.

Đạo lý dung thông và không tín điều của Phật cho phép Phật tử vận dụng cái nhìn quán triệt về giáo lý căn bản như những đạo lý duyên khởi, vô ngã, vô thường, bốn chân lý cao thượng, v.v… làm cơ sở cho hành động thực tiễn nhắm đến mục đích cải thiện con người và xã hội. Theo lẽ thường thì con đường xa có thể đưa được người đi gần. Và đến điểm gần tức là đạt được phần nào lộ trình của sự đến điểm xa. Do đó, không có mâu thuẫn giữa lý tưởng trước và lý tưởng sau.

 

Tu dưỡng con người, xây dựng xã hội

Thể theo tinh thần này, chúng tôi hôm nay tuy bàn đến giáo lý căn bản nhưng lướt qua vấn đề giác ngộ chân lý để giải thoát sanh tử luân hồi mà chỉ nhấn mạnh vấn đề tu dưỡng con người, xây dựng xã hội.

Nhân đây, thiết tưởng cũng nên nhớ rằng đạo lý duyên khởi dạy cho Phật tử biết linh động trong lúc khảo sát sự vật và thực hiện công tác tu dưỡng và xây dựng. Có thể đặt vấn đề tu dưỡng con người trước và cải tạo xã hội sau, cũng có thể đặt vấn đề cải tạo xã hội trước và tu dưỡng bản thân sau, tùy theo sự quan trọng của mọi vấn đề trong hoàn cảnh nào đó. Hoặc cả hai vấn đề có thể được thực hiện một lần. Bây giờ chúng tôi bàn vấn đề tu dưỡng có thể đem  lại an lành cho con người.

 

Bi trí dũng

Tu dưỡng con người là việc rất cần thiết đối với Phât tử. Điều cần lưu ý là Phật không thể nói con người như một hiện hữu biệt lập với hoàn cảnh và xã hội. Phật cũng không nói đến bản tính đồng nhất cố định của con người. Vấn đề "lương tâm" cũng không có trong đạo Phật. Con người, theo Phật, là một hữu tình tổng hợp của sắc tâm, có nhiều khả năng giác ngộ giải thoát hơn cả những loài hữu tình cao hơn nó. Nếu có đủ duyên tốt thì con người có thể đạt được đến địa vị cao nhất: giác ngộ, giải thoát hoàn toàn (Phật). Do đó, tu dưỡng có nghĩa là (1) cải tạo tình cảm, chuyển đổi tham lam tàn bạo thành thương yêu giúp đỡ (bi = mattâ – karugâ), (2) phát triển trí tuệ, trừ bỏ si mê lầm lạc hướng về giác ngộ sáng suốt (trí = pannâ), và (3) rèn luyện ý chí, không hèn nhát sợ sệt mà tinh tấn, quả cảm (dũng = viriyâ).

Từ bi không phải là lòng thương hại kẻ xấu số mà là lòng thương yêu bình đẳng, thân hữu, không toan tính, như lòng thương yêu mẹ hiền đối với đứa con một.

Trí tuệ là thấy biết sự vật đúng như thật (yathâbhâta). Trí tuệ là kết quả của thành khẩn học hỏi (suta), suy nghĩ kỹ càng (cinta) và thực nghiệm thấu đáo (bhâvanâ).

Dũng cảm là mạnh dạn tiến lên trong sự giác ngộ giải thoát cho mình cho người. Dũng cảm được phát triển qua sự vận dụng sức mạnh của ý chí trong việc ngăn ngừa các điều ác chưa sanh, phá bỏ các điều ác đã sanh, phát khởi các điều lành chưa có, và tăng trưởng các điều lành đã có.

 

Bình đẳng, hòa hợp, hạnh phúc

Xã hội mà Phật tán thành và khuyến khích mọi người xây dựng là xã hội bình đẳng, hòa hợp và hạnh phúc.

Phật là người đầu tiên trong lịch sử nêu cao vấn đề bình đẳng giữa người và người. Phật chống lại lý thuyết, tập tục bất bình đẳng của đạo Bà La Môn. Mặc dù con người không hoàn toàn giống nhau về thể chất và tâm lý song tất cả đều có khả năng và giá trị cao đẹp. Vì thế con người phải được bình đẳng trước luật pháp, trong giáo dục cũng như trong những quyền làm người khác.

Phật ca ngợi chế độ dân chủ cộng hòa của nước Kosala và chủ trương tất cả mọi người đều có thể giác ngộ giải thoát như nhau. Cách thức thâu nhận đệ tử, tổ chức Tăng đoàn và thái độ đối đãi ngang nhau đối với mọi thành phần xã hội, từ vua chúa đến người gánh phân, của Phật nói lên được tinh thần bình đẳng của Phật.

Xã hội theo đạo Phật đã không phải là một tổ chức cứng nhắc không biến đổi mà là một cấu trúc được kết hợp bởi nhiều yếu tố như nhân sự, kinh tế, chính trị v.v... Do đó, muốn tổ chức xã hội một cánh hợp lý và công bình thì nên tổ chức trong tinh thần hòa hợp, công ích. Phật thường dạy Tăng đoàn phải sống với nhau theo nguyên tắc sáu hòa:

1)    Thân hòa cùng chung sống;

2)    Miệng hòa không cải vã;

3)    Ý hòa cùng vui vẻ;

4)    Kiến (tư tưởng) hòa cùng thông giải;

5)    Giới (kỷ luật) hòa cùng tôn trọng;

6)    Lợi hòa cùng chia đều.

Phật cũng được gọi là vua hòa bình (santirâja) và phương pháp tu dưỡng của Phật không gì khác hơn là lối sống hòa hợp (samacariya) với chân lý và con người.

Một hôm, trong lúc Phật sắp thuyết pháp thì có một người chạy vội vàng vào hội trường. Sau khi biết người này vì phải đi tìm con bò lạc nên đến nghe giảng trễ và chưa ăn tối, Phật liền bảo lấy cơm cho người này ăn. Đợi cho thính giả này ăn xong, Phật mới thuyết pháp. Tuy nhiên nêu cao niềm vui giác ngộ giải thoát song Phật luôn luôn nhắc nhở Phật tử tại gia phải lưu tâm đến vấn đề no cơm ấm áo. Trong kinh Cakkavatti Sihanada, Phật cũng khuyến khích các người lãnh đạo phát triển kinh tế và điều hòa sự phân phối như yếu cho dân chúng để ngăn chận trộm cướp và sa đọa tinh thần. Quan niệm hạnh phúc của Phật cũng hết sức giản dị: hạnh phúc chân thật có thể đạt được nếu chúng ta biết sống đúng cách; hạnh phúc tương đối như hạnh phúc gia đình, xã hội và hạnh phúc tuyệt đối như hạnh phúc niết bàn đều có thể thực hiện ngay "ở đây" và "bây giờ".

Làm lễ kỷ niệm ngày Phật Đản quả là việc làm có ý nghĩa đối với toàn thể Phật tử trên thế giới. Trong khi làm lễ Phật Đản mà hiểu được Phật và áp dụng lời phật dạy trong công việc tu dưỡng cho con người có đủ bi trí dũng và xây dựng một xã hội bình đẳng, hòa hợp, hạnh phúc là việc làm vừa có ý nghĩa vừa rất lợi ích đối với Phật tử Việt Nam

Paris, mùa Phật Đản 2520, 1976

Tỳ Kheo Thích Thiện Châu

 

phat-dan-sanh 

 


Chí tâm đảnh lễ A tỳ ngục tốt phát khởi từ tâm, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ A tăng kỳ kiếp quả mãn nhân tròn, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Nhất sinh bổ xứ cung trời Đâu Suất, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Ta Bà hóa độ ứng hiện sinh thân, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Đâu Suất giáng thần ứng mộng Ma Gia, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Hoàng cung thác chất thị hiện đầu thai, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Dưới hoa vô ưu Khánh Đản giáng sinh, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Giả hưởng năm dục chán cảnh vô thường, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Dạo bốn cửa thành, thấy cảnh sanh già bệnh chết, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Nửa đêm vượt thành xuất gia học đạo, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Non xanh cắt tóc tìm Thầy học đạo, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Chí tâm đảnh lễ Núi thẳm tu hành sáu năm khổ hạnh, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Dưới gốc Bồ đề hàng phục ma vương, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni phật.

Chí tâm đảnh lễ Sao mai vừa mọc đạo quả viên thành, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Bốn mươi lăm năm thuyết pháp độ sinh, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Hóa độ bốn chúng vừa đủ, hoằng truyền đạo pháp vuông tròn, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Sa la song thọ thị hiện viên tịch, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Lưu bố xá lợi phước ích trời người, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chí tâm đảnh lễ Ta bà giáo chủ đại từ đại bi, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/03/2017(Xem: 10129)
Xuất gia là một đại nguyện. Giữ được Tâm trong không thối chuyển là một đại duyên. Tại Việt Nam hôm nay, nếu lấy tròn số sẽ có 45.000 tu sĩ Phật giáo với dân số 100.000.000 người thì trung bình cứ 2.200 người mới có một người đi tu theo đạo Phật. Tại Hoa Kỳ hôm nay, ước lượng có 1.200 tu sĩ Phật giáo trên tổng số 2.000.000 người Việt thì trung bình cứ 1.600 người có một tu sĩ Phật giáo. Con số tự nó không đánh giá chân xác được tình trạng tôn giáo và chiều sâu hành đạo của các tu sĩ thuộc tôn giáo đó. Nhưng ít nhiều phản ánh được những nét tổng thể của mối quan hệ giữa quần chúng và tổ chức tôn giáo.
15/02/2017(Xem: 6541)
Đời thường trong các kiểu ăn cắp thì ăn cắp sách báo (hay cầm nhầm, hay mượn quên trả cũng vậy) có lẽ là loại ăn cắp dễ tha thứ nhất. Người ta tự cho là khi mượn tạm „chút kiến thức nhân loại“ thì không tội tình lớn như ăn cắp trái xoài trái ổi, ăn cắp con gà con vịt, cho đến ăn cắp tiền hay đồ dùng… Kể cả ăn cắp trái ớt cũng trầm trọng hơn là cầm nhầm một cuốn sách rồi… quên trả. Thú thật, trong đời tôi cũng từng đã có vài lần đến nhà bạn chơi, xem một cuốn sách thấy hay và đọc thích thú không dừng được. Bạn nói, thôi mang về nhà đọc tiếp. Vậy mà mấy năm sau sách vẫn cứ ung dung cắm rễ ở tủ sách nhà (!).
07/02/2017(Xem: 14754)
Bộ phim điện ảnh Phật giáo về cuộc đời và đạo nghiệp của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh do Hãng phim Sen Việt và chùa Vạn Đức phối hợp sản xuất.
01/02/2017(Xem: 6485)
Tiến sĩ Y Khoa Phan Giang Trí, 46 tuổi, trong vai trò đồng-trưởng-toán nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Cancer Garvan ở Sydney, Australia, đang tìm phương cách chữa trị bệnh ung thư. Định cư tại Australia lúc 7 tuổi trong một gia đình mà cha mẹ và anh chị em đều là bác sĩ, dược sĩ và nghiên cứu y học, Tiến sĩ Phan Giang Trí đã tốt nghiệp bác sĩ Y Khoa hạng danh dự với Huy Chương Viện Đại Học Sydney, sau đó đạt học vị tiến sĩ và đến Hoa Kỳ để tiếp tục nghiên cứu hậu-tiến-sĩ trong lãnh vực microscopy. Ông đã phục vụ tại Viện Nghiên Cứu Ung Thư Garvan ở Sydney nhiều năm nay và cũng đã đạt được Giải Thưởng danh tiếng khoa học gọi là Eureka của The Australian Museum.
17/01/2017(Xem: 10231)
Hoa Kỳ thành kính cáo bạch: Sư Bà Thích Nữ Như Nguyện, thế danh Nguyễn Ngọc Hiếu, sinh năm Đinh Hợi, 1947, thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Ni Bộ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK, Trú Trì Chùa Xá Lợi, Thành Phố Rosemead, California, đã viên tịch vào lúc 5 giờ chiều ngày 15 tháng 1 năm 2017, nhằm ngày 18 tháng Chạp năm Bính Thân tại Bệnh Viện Beverly Hospital, Thành Phố Montebello, Miền Nam California, Hoa Kỳ, thế thọ 70, lạp thọ 48. - Lễ Nhập Kim Quan sẽ diễn ra vào lúc 9 giờ sáng, Chủ Nhật, ngày 22 tháng 01 năm 2017 (nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Bính Thân); - Lễ Trà Tỳ được cử hành vào lúc 3 giờ chiều Thứ Hai, ngày 23 tháng 01 năm 2017 (nhằm ngày 26 tháng Chạp năm Bính Thân), tại Peek Feneral Home, Westminster, California. Ngưỡng mong chư tôn Thiền Đức trong mười phương nhất tâm hộ niệm cho Giác Linh Sư Bà Thích Nữ Như Nguyện Cao Đăng Phật Quốc. Thành tâm khuyến thỉnh chư tôn đức Tăng, Ni, quý Cư Sĩ, các Chùa, Tự Viện, Niệm Phật Đường là thành viên của GHPGVNTNHK
01/01/2017(Xem: 8855)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương, thế danh Śūnyatā Phạm, sinh năm 1963 tại Bình Tuy, xuất gia năm 15 tuổi. Năm 1994, Ni sư tốt nghiệp Cử nhân Văn tại Sài Gòn. Ni sư du học tại Ấn Độ 10 năm, tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Delhi năm 2003. Năm 2005, Ni sư định cư tại Hoa Kỳ. Năm 2015, Ni sư tốt nghiệp Cử nhân Văn tại Đại học Riverside, California và đang theo học chương trình Cao học Văn tại trường cũng như đang là giảng viên của Học Viện Phật Giáo Việt Nam, Sài gòn. Ni sư lập tủ sách Bảo Anh Lạc, đã viết và chuyển ngữ hơn 20 tác phẩm Anh và Việt, 8 đĩa ca nhạc Phật giáo được xuất bản, phát hành từ năm 2004 đến nay. Năm 2000, sư đã thành lập chùa Hương Sen, Bình Chánh, Sài Gòn (Việt Nam) và năm 2010 - đến nay, sư đã khai sơn thành lập và là trụ trì chùa Hương Sen, thành phố Perris, tiểu bang California (Hoa Kỳ).
24/12/2016(Xem: 15336)
Thành Kính Tưởng Niệm Thượng Tọa Thích Đức Trí Trụ Trì Chùa Tam Bảo, Oklahoma, Hoa Kỳ
18/11/2016(Xem: 22389)
Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Bình, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa đã thu thần viên tịch tối nay, 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn (22 đường 23 tháng 10, phường Phương Sơn, TP.Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
08/11/2016(Xem: 16158)
Trang Nhà Quảng Đức vừa nhận được tin viên tịch: Hòa thượng Thích Chơn Thiện, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương, Viện trưởng Học viện Phật giáo VN tại Huế vừa viên tịch trưa nay, 8-11-2016 (9-10-Bính Thân) tại tổ đình Tường Vân (phường Thủy Xuân, TP.Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế). Hòa thượng Thích Chơn Thiện sinh năm 1942, đồng chơn xuất gia với Trưởng lão HT.Thích Tịnh Khiết tại tổ đình Tường Vân, từng du học Hoa Kỳ và tốt nghiệp Cao học về ngành Tâm lý giáo dục, tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học New Delhi, Ấn Độ. Hòa Thượng cũng là Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa Phật giáo, Viện chủ thiền viện Vạn Hạnh (Q.Phú Nhuận, TP.Hồ Chí Minh), Trụ trì tổ đình Tường Vân (P.Thủy Xuân, TP.Huế)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]