Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công trình giảng dạy Phật pháp của Hòa Thượng Thích Thiện Châu

14/02/202319:43(Xem: 2590)
Công trình giảng dạy Phật pháp của Hòa Thượng Thích Thiện Châu


ht thich thien chau

Công trình giảng dạy Phật pháp
của HT Thích Thiện Châu

(Khai Sơn Thiền Viện Trúc Lâm, Paris, Pháp Quốc)

Bài viết của Cư Sĩ Nguyên Phước Trịnh Đình Hỷ

Do Phật tử Diệu Danh diễn đọc





Tôi xin phép được chia sẻ với quí vị một số nhận xét và cảm nghĩ về công trình giảng dạy về Phật pháp của ThầyThiện Châu, trong khoảng thời gian 32 năm, từ 1966 tới 1998, tại Âu châu.

Vào những năm 1960, chỉ có một số ít tăng sĩ VN được đi du học và giảng dạy ở nước ngoài. Trong số đó có Thầy Minh Châu, đi du học tại Sri Lanka rồi Ấn Độ, tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Nalanda, sau trở về Sàigòn thành lập Viện ĐH Vạn Hạnh, rồi Viện Nghiên cứu Phật học VN. Thầy Thiện Châu, đi du học tại NalandaLondon và tốt nghiệp Tiến sĩ Triết học và Văn chương tại Đại học Paris Sorbonne. Thầy Nhất Hạnh, giảng dạy tại các Đại học Princeton và Columbia, Hoa Kỳ, sau về gần Bergerac, Pháp, phát triển dòng Tiếp hiện Làng Mai.

Nhờ kinh nghiệm tu học ở nước ngoài mang lại một cái nhìn lịch sử và chính xác hơn về đạo Phật, cho nên cả ba Thầy đều ý thức được sự cần thiết chấn hưng Phật giáo, trở về với giáo lý cội nguồn, đồng thời hiện đại hóa đạo Phật, thay vì thu mình trong các nghi lễ tín ngưỡng cổ truyền. Thầy Minh Châu bằng cách nâng cao ngành giáo dục PG qua sự phát triển viện ĐH Vạn Hạnh và các viện Phật học; Thầy Thiện Châu bằng cách xiển dương một đạo Phật trung thực, giản dị, dễ hiểu cho các Phật tử tại Âu châu; Thầy Nhất Hạnh bằng cách phổ biến rộng rãi phương pháp « chánh niệm », nhằm chuyển hóa tâm thức mỗi người, trong đời sống hàng ngày.

Trong những năm 60, ngoại trừ một vài huynh trưởng Phật tử đã từng hoạt động tại VN, đa số chúng tôi là những sinh viên mới sang du học tại Pháp, Đức, Thụy Sĩ hoặc Bỉ, ngây thơ chẳng biết gì về đạo Phật. Đạo Phật của chúng tôi thực tình đã được khai sáng bởi các Thầy, và đặc biệt Thầy Thiện Châu, là người hướng dẫn và thành lập nên Liên đoàn SVPT Âu châu, Hội PTVN tại Pháp và Trúc Lâm Thiền viện.

Điều đầu tiên mà Thầy dạy cho chúng tôi và tất cả những ai muốn tìm hiểu về đạo Phật, là đạo Phật là một con đường trí tuệ, dựa lên sự hiểu biết và thực hành con đường vạch ra bởi đức Phật. Và đức Phật là một người Thầy, đã tìm ra, chứng nghiệm và chỉ dạy con đường đó cho tất cả những ai muốn đi theo ngài. Con đường đó làconđường chánh 8 nẻo, với3 môn học « giới, định, huệ », nhằm giải thoát khỏi khổ đau, tiêu tan phiền não, lậu hoặc và đem lại thanh tịnh, an lạc.

Khác với các tôn giáo thần khải như Ấn Độ giáo, Ky Tô giáo, Hồi giáo,đạo Phật không cần đến đức tin. Đúng hơn, người Phật tử tin tưởng (tiếng pali gọilà saddhā) nơi con đường và người dẫn đường, chứ không phải sùng tín (pali là bhakti) Thượng Đế, các thần linh, hay một thế lực siêu nhiên nào. Trong tinh thần đó, Thầy nhắc nhở cho chúng tôi lời Phật dạy trong Kinh Đại Bát Niết Bàn pali: « Hãy tự mình là hòn đảo, là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa vào chính mình, chớ nương tựa vào một nơi nào khác ». Và trong Kinh Pháp Cú (1): « Hãy tự mình cố gắng, Như Lai chỉ là thầy (câu 276). « Tự mình làm điều ác, Tự mình sanh nhiễm ô, Tự mình không làm ác, Tự mình thanh tịnh mình. Tịnh hay không, do mình, Không ai thanh tịnh ai. »(câu 165).

Như vậy, điều cốt yếu phải hiểu là: đạo Phật là một con đường giải thoát; nhưng không phải giải thoát bởi một thế lực bên ngoài, mà là giải thoát bởi chính mình, tự mình giải thoát, tự mình giải phóng khỏi những ràng buộc do mình tạo nên. Vào thế kỷ thứ 5- thứ 6 trước CN tại Ấn Độ thời bấy giờ, thống trị bởi truyền thống Vedavàđạo Bà La Môn, đạo Phật xuất hiện như một tư tưởng hoàn toàn mới mẻ và cách mạng, đặt con người trước trách nhiệm của mình, và đặt tin tưởng nơi con người.

Có hai bài giảng của đức Phật mà Thầy thườngkể lại, gây nên một ấn tượng sâu sắc cho chúng tôi: đó là ẩn dụ “mũi tên độc”, và lời dạy của đức Phật cho dân làng Kalama.

Khi Malunkyaputta (2), một đệ tử hỏi ngài tại sao không trả lời về các câu hỏi siêu hình như « vũ trụ hữu hạn hay vô hạn trong không gian và thời gian, Như Lai sau khi chết có còn hay không, và linh hồn và thể xác là một hay khác nhau », thì ngài lấy thí dụ của một kẻ bị bắn một mũi tên độc, không chịu cho chữa chạy nếu không được biết mũi tên bắn từ đâu, với cây cung làm bằng gỗ nào, người bắn tên là ai, vì lý do nào lại bắn, v.v., thì người đó chắc chắn sẽ chết trước khi nhận được các câu trả lời. Đức Phật luôn luôn gạt bỏ những câu hỏi siêu hình, không những không thể trả lời được, mà chỉ làm mất thời giờ, không ích lợi gì cho sự giải thoát.

Còn đối với người dân làng Kalama (3), thắc mắc không biết nên tin vào lời thuyết giảng của ai, thì đức Phật dạy: "Này các vị Kalama, các vị đừng tin vì nghe lời truyền khẩu, đồn đại, đừng tin vì đó là truyền thống, được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, suy diễn, đừng tin vì hợp với định kiến, đừng tin vì vẻ có uy quyền, đừng tin vì đó là lời thầy mình. Nhưng khi nào các vị tự mình biết rõ: 'Các điều này bất thiện; các điều này đáng chê; các điều này nếu được chấp nhận và thực hiện, sẽ đưa đến bất hạnh, khổ đau', thì các vị hãy từ bỏ chúng. Khi nào các vị tự mình biết rõ: 'Các điều này là thiện; các điều này đáng khen; các điều này nếu được chấp nhận và thực hiện, sẽ đưa đến an lạc, hạnh phúc', thì các vị hãy dựa vào chúng". Trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, chỉ có đức Phật mới nói lên điều đó: đừng vội tin ngay cả vào ta, vị thầy của các người, nhưng hãy tự mình kiểm chứng!

Hai bài học này tỏ rõ tinh thần phê phán, thực tiễn và thực nghiệm của đạo Phật. Nói theo danh từ triết học Tây phương, thì đạo Phật là một hiện tượng học (phénoménologie), chứ không phải là một bản thể học (ontologie). Đức Phật chỉ đặt trọng tâm vào một hiện tượng, là hiện tượng khổ, cũng như lời ngài nói trong Kinh Trung Bộ (4): « Như Lai chỉ dạy một điều: sự khổ đau và sự chấm dứt khổ đau » và trong Kinh Phật Tự Thuyết (5): « Cũng như nước các đại dương chỉ có một vị mặn, Giáo pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát ».

Vì đạo Phật là một con đường trí tuệ, cho nên Thầy chủ trương bài trừ mê tín, dị đoan, bói toán, bùa phép, đồng bóng, tin vào linh hồn, ma quỷ, là những truyền thống dân gian lạc hậu, không liên quan gì đến đạo Phật. Thầy giải thích « cầu siêu » chính là « cầu an » cho gia đình tang quyến, nhằm xoa dịu nỗi thươngđau và mang lại an tĩnh cho những người còn lại.

Nghi lễ tụng niệm chính là dịp để người Phật tử hiểu rõ hơn về đạo Phật, vì thế cho nên Thầy chủ trương tụng niệm bằng tiếng Việt, thay vì tiếng Hán do ảnh hưởng lâu đời của Trung quốc, và đọc những bài Kinh căn bản, dễ hiểu, như cácKinh Chuyển Pháp Luân, Vô Ngã Tướng, Từ Bi, Chơn Hạnh phúc, và đặc biệt Kinh Pháp Cú (1),với những câu kệ giản dị, dễ hiểu, và gần nhất với lời Phật dạy. Chẳng hạn như câu: « Dầu tụng trăm câu kệ, Nhưng không có lợi ích, Chẳng bằng một câu Pháp, Nghe xong được tịnh lạc »(câu 102).

Đa số kinh Thầy trích giảng là thuộc Bộ Kinh (Nikaya) hệ pali, cho nên có người đặt câu hỏi là tại sao đạo Phật VN chủ yếu là Đại Thừa, mà Thầy lại có vẻ theo Tiểu Thừa (hay là Nguyên Thủy) hơn?

Trong bài « Tam Bảo là chuẩn đích cho phát triển Phật Giáo Việt Nam » (6), trình bày trong một Hội thảo năm 1996, Thầy có nói : « Chúng ta quan niệm đạo Phật là một cây lớn; chúng ta không chia phần gốc là quan trọng, hay phần cành là quan trọng.(…) Vì vậy chúng ta không phân biệt Đại thừaTiểu thừa, ngay cả Nhất thừa, cho đến Tối Thượng thừa chúng ta cũng không nói đến; chỉ nhắc đến giáo pháp của Phật là phương pháp đạo lý để giải thoát và giác ngộ, tùy theo căn cơ mình tu tập. »

Tuy nhiên, trong bài giới thiệu « Kinh Sa môn Chơn chánh » (7), thuộc « Tiểu Bộ Kinh », Thầy cho rằng quan điểm « ngũ thời bát giáo », phân chia lời Phật dạy ra làm 5 thời kỳ (Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa - Niết Bàn) của một cổ đức Trung quốc (tức là ngài Trí Giả) « không phù hợp với lịch sử tư tưởng Phật giáo và nhất là hoàn toàn sai với lịch trình thuyết pháp của Phật... Sự sai lầm lớn nhất là xem nội dung A Hàm là thấp kém (gọi là Tiểu thừa), và nội dung Pháp Hoa, Niết Bàn, là cao nhất (gọi là Tối Thượng thừa) ».

Thầy còn tiếp: « Các cổ đức Trung quốc là những bậc lão thông kinh điển, nhất là kinh điển phát triển Đại Thừa, song rất thiếu sót về quan niệm lịch sử, nhất là lịch sử Phật giáo Ấn Độ. (…) Chúng ta không có gì để phiền trách các vị cổ đức. Điều đáng phê bình là các học giả Phật học sau này, Trung quốc cũng như Việt Nam, sau khi đã tiếp xúc với Ấn Độ và Phật giáo Nguyên thủy, vẫn còn duy trì những sự hiểu biết cổ kính sai lầm như cách phán giáo ấy.

Quan niệm lệch lạc về lịch sử tư tưởng Phật giáo này đã gây nên hậu quả nguy hiểm là khinh rẻ giáo lý căn bản do chính Phật thuyết trong 45 năm, trái lại ham chuộng kinh điển phát triển về sau. Thậm chí, có những tôn phái chủ trương chỉ đọc tụng một bộ Kinh Pháp Hoa hay chỉ cần (...) tụng niệm câu "Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh" là cũng đủ thành Phật! (…) Như thế, đối với chúng ta, tất cả gia tài giáo lý mà chúng ta có được đều là vô giá, song điều cần thiết khi đọc kinh là phân biệt kinh nào là kinh Phật, kinh nào là kinh Tổ. »

Thầy cũng giải thích tại sao Thầy đặt trọng tâm vào đức Phật Thích Ca: « Nhiều khi quá khoan hòa chúng ta quên mất ý niệm lịch sử; vì vậy, có nhiều người đi chùa mà không biết Phật là ai, ai là người lập ra đạo Phật. Có Nam mô Phật, có Nam mô A Di Đà Phật, có Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật,... nhưng quên mất và cũng không hiểu rõ rằng người sáng lập ra đạo Phật là đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.(…) Trong thời đại khoa học này, chúng ta phải tập trung làm sáng tỏ đức Bổn sư của chúng ta, vì đức Bổn Sư quá đẹp, quá cao, quá siêu việt. Chúng ta có thể thờ tất cả các vị Bồ Tát, nhất là Bồ Tát Quan Thế Âm, nhưng đừng để những đức tánh của các vị Bồ Tát hay hình tượng các ngài che lấp ánh sáng đức Bụt của chúng ta.(…) Trong Phật giáo bây giờ có hiện tượng là nhiều khi có chùa mà không thờ Phật, hoặc thờ Phật mà không được rõ ràng, không được chú tâm tới đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Vì vậy, cũng đừng lấy làm lạ khi có người nghi ngờ tôi không phải là tu sĩ, người ta tới chùa không thấy tôi niệm A Di Đà Phật. Tôi biết đức Phật A Di Đà rất quý, rất đẹp, là một nơi cho nhiều người quy hướng, nhất là về tuổi già và hy vọng cho đời sau. Nhưng tôi không niệm A Di Đà Phật vì tôi muốn cố ý làm cho đức Bổn Sư lịch sử, cũng như hình tượng ngài được nổi lên rõ ràng, để chúng ta theo đó mà tu hành. »

Để trả lời lá thư một Phật tử (8) đặt câu hỏi tại sao lại tụng kinh Chơn Hạnh Phúc, kinh Từ Bi mà không tụng kinh A Di Đà, Phổ Môn, Thầy viết như sau: « Tôi xin nói rõ rằng tôi không hề ngăn trở việc tụng các kinh này, nhưng tôi chỉ khuyến khích những người nào hiểu nghĩa và quen tụng các kinh nầy nên tụng riêng ở nhà. Không cần nói đến tính cách tông phái của nó: kinh A Di Đà thích hợp với người theo tông Tịnh Độ, kinh Phổ Môn thích hợp cho những người tin tưởng Bồ Tát Quan Âm (…) Trong khi đó, kinh Chơn Hạnh Phúc và kinh Từ Bi là những kinh ngắn, hay, căn bản cho tất cả Phật tử và cũng là những kinh do chính đức Phật đã nói ra. »

Còn về câu hỏi tại sao Thầy lại cho tụng Ba qui y, Năm giới bằng tiếng pali mà không tụng chú Đại bichú Chuẩn đềnhư ai cũng làm bên nhà, thì Thầy trả lời: « Sở dĩ Phật tử bên nầy tụng Ba qui y, Năm giới là vì chính Hội Phật giáo Liên hữu Quốc tế đã quyết định: "Phật tử nên tụng Ba qui yNăm giới trước các buổi lễ Phật và các cuộc hội họp". Và họ tụng bằng tiếng pali là để gây tinh thần đồng nhất không những giữa các Phật tử Nam Tông, Bắc Tông Việt Nam mà cả giữa các Phật tử Pháp, Đức, Anh, Lào, Miến Điện, Tích Lan, v.v. Ba qui y, Năm giới là những điều căn bản mà bất cứ Phật tử ở nơi nào, thuộc tông phái nào, cũng đều phải biết. Còn các bài thần chú chỉ có người Phật tử theo Mật tông mới tụng mà thôi. Đó là không nói đến điều không chính xác do sự phiên âm từ tiếng Phạn sang tiếng Hán và được đọc ra bằng tiếng Việt. Hơn nữa các bài chú nầy không thể giảng nghĩa. »

Trong sự tu tập, thiền định đối với Thầy rất quan trọng, vì đó là một trong ba môn học để đánh tan lậu hoặc. Cũng như trong Kinh Pháp Cú có câu: « Không có tuệ, không định. Không có định, không tuệ. Người có định, có tuệ, Đạt Niết bàn viên tịnh »(câu 372). Thầy thường khuyến khích tất cả mọi người nên thực hành thiền định đều đặn, theo lời dạy của đức Phật trong Kinh Tứ Niệm Xứ hay Kinh Niệm Hơi Thở. Và đặc biệt đối với chúng tôi, các trí thức Phật tử có khuynh hướng học Phật trong sách vở hơn là thực hành. Bao nhiêu năm đã qua, nhưng kỷ niệm của các buổi ngồi thiền, sáng sớm trên cánh đồng ở các trại hè, vẫn còn sâu đậm trong ký ức của chúng tôi. Sau này, nhờ các tiến bộ đột phá của khoa học thần kinh và các áp dụng y khoa của thiền chánh niệm (mindfulness), thiền định đã trở thành một phương pháp tập luyện tâm-thân (mind-body) được hưởng ứng mạnh mẽ trong xã hội Tây phương hiện đại.

Nói tóm lại, Thầy Thiện Châu trong suốt cuộc đời hoằng pháp của Thầy, đã xiển dương một đạo Phật chân thực, thuần túy, trung thành với lời dạy của đức Phật Thích Ca. Một đạo Phật không hoa mỹ, hào nhoáng, nhưng trong sáng, giản dị, dễ hiểu, có thể áp dụng được bởi tất cả những ai đi tìm một giá trị tâm linh, một triết lý sống, một nền đạo đức, một tâm lý trị liệu, làm cho tâm thức bớt phiền não, thêm an lạc và hạnh phúc.

Cuối cùng, bài học của Thầy cũng chính là tác phong của Thầy, một con người bình dị, khiêm cung, gần gũi với mọi người, với lời nói nhẹ nhàng và nụ cười hiền hậu. Trong các bài thơ làm trên sườn đồi Trúc Lâm Villebon,Thầy tự ký tên là « người làm vườn ». Chẳng hạn như trongbài « Mai am »:

« Sương núi phủ am lạnh,

Nhạc nước vẫn reo đều,

Sư già vui tĩnh tọa,

Trên đồi chim, sóc kêu. »

Hình ảnh và tấm gương của Thầy Thiện Châu, một vị chân tu, trí tuệ trong sáng và đức độ cao dày, vẫn còn phảng phất đâu đây. Mặc dù Thầy đã đi qua, và các đệ tử của Thầy cũng lần lượt đi qua, nhưng các lời dạy thấm thía của Thầy còn vang vọng mãi trên sườn đồi Trúc Lâm.

Để tưởng nhớ đến Thầy, xin chúng ta cùng nhau đọc câuđảnh lễ đức Thế tôn bằng tiếng pali, như Thầy thường đọc :       

Namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa !

Kính lễ đức Thế tôn, bậc giải thoát, giác ngộ hoàn toàn!

 

                                                          

 Trịnh Đình Hỷ,

Pháp danh Nguyên Phước




Tài liệu trích dẫn 

1)     Kinh Pháp Cú (Dhammapada), thuộc Tiểu Bộ (Khuddaka-nikaya)

Hiểu đạo Phật một cách giản dị bằng Kinh Pháp Cú (Dhammapada)

Trịnh Nguyên Phước, Nguyên Đạo : http://www.truclamthienvien.fr/index.php/tailieu/115-kinhphapcu

2)     Tiểu kinh Malunkya (Cula-malunkya sutta), thuộc Trung Bộ (Majjhima-nikaya, 63)

Thích Minh Châu dịch : http://cusi.free.fr/dtk/trungbo/trung063.htm

3)     Kinh Kalama, thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttara-nikaya, I, 188-193)

Thích Thiện Châu, Kinh Kalama http://cusi.free.fr/gtk/gtk0054.htm

4)     Kinh Trung Bộ (Majjhima-nikaya, I, 140, 22)

5)     Kinh Phật Tự Thuyết (Udana, 67)

6)     Thích Thiện Châu, « Tam Bảo là chuẩn đích cho phát triển Phật Giáo Việt Nam », bài trình bày trong Hội thảo « Hướng phát triển Phật Giáo Việt Nam », ngày 8/9/1996, tại Trúc Lâm Thiền Viện, Villebon s/Yvette.

http://cusi.free.fr/pgtd/chp0050.htm

(7) Thích Thiện Châu, « Kinh Sa môn Chơn chánh » : http://cusi.free.fr/gtk/gtk0055.htm

(8) Thích Thiện Châu, « Trả lời thư của một Phật tử », Báo Tin Phật, số 13, ngày 14/3/1970



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/04/2016(Xem: 12756)
Hôm nay Thứ bảy 23/4/2016, Chúng con môn đồ pháp quyến, đệ tử cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức Tăng, Ni quang lâm Chùa Duyên Giác, San Jose, CA, USA. Chứng Minh Lễ tưởng niệm Cung tiến Giác Linh cố Thượng Tọa Thích Minh Phát, Lễ Giổ tưởng niệm Ân Sư lần thứ 20, có sự Chứng Minh của Chư Tôn Đức: HT. Thích Minh Đạt, HT. Thích Thái Siêu, HT. Thích Nhựt Huệ, TT. Thích Tâm Phương, TT. Thích Đồng Trí, TT. Thích Minh Thiện, cùng Chư Tôn Đại Đức Tăng, Quý Sư Bà, TN. Nguyên Thanh, NS. TN. Như Phương, Ns. Tn. Quảng Tịnh, cùng chư tôn đức Ni, đáp lời cung thỉnh quang lâm chứng minh hộ niệm. Môn đồ Pháp quyến Thành kính đảnh lễ tri ân Quý Ngài, sau đây những hình ảnh được ghi lại.
14/04/2016(Xem: 14358)
HT Tăng Giáo Trưởng còn nổi tiếng là người trực tánh, nói thẳng, nhất là việc phá tà hiển chánh, những điều trái ý nghịch lòng HT ít khi giấu kín trong lòng. Một lần nọ, HT đến dự hội thảo về Giáo Dục tại Victoria Uni do GS Phan Văn Giưỡng mời, trong hội nghị trường có trên 20 Giáo Sư Đại Học khắp thế giới, một bà giáo sư đến từ Anh Quốc đứng lên chỉ trích giáo lý Bát Chánh Đạo của Phật Giáo, ý nói rằng Giáo lý này có gì hay ho đâu mà mỗi lần đến hội nghị cứ nghe các đại diện PG cứ nhắc đi nhắc lại hoài, thật là nhàm chán. HT Tăng Giáo Trưởng không dằn lòng được sự chỉ trích vô minh này, Ngài đã đứng lên hỏi ngay " thưa GS, GS làm nghề gì ? tôi dạy học " , " học trò của GS có hiểu bài GP giảng không ? có, vậy GS có đi ăn trộm không ? bà GS há hốc mồm khi nghe câu hỏi chói lỗ tai này. Nhưng HT đã chúc mừng bà GS đã sống theo giáo lý chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ, chánh tư duy của Bát Chánh Đạo rồi mà không hề biết, cả hội trường đều vỗ tay tán thán HT và bà GS sau đó đã đến xin lỗ
12/04/2016(Xem: 12489)
Trong phiên họp của Hội Đồng Điều Hành của GH vừa qua tại Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 15 tại Sydney, đã quyết định tổ chức Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo Hội là Trưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ. Buổi lễ sẽ tổ chức long trọng trong dịp Chư Tôn Đức về dự Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17 của GH tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu. Để cho buổi lễ tri ân được thập phần viên mãn, Ban Biên Tập Trang Nhà Quảng Đức xin gởi Thư Ngỏ này tha thiết kính thỉnh Chư Tôn Đức và quý Phật tử gần xa, hoan hỷ viết bài (thơ, văn, cảm niệm...) và gởi hình ảnh lưu niệm về nhị vị Trưởng Lão Hòa Thượng, nhất là những hình ảnh mang tính lịch sử như Lễ Đặt Đá Xây Dựng Chùa, các Khóa Tu, các kỳ Lễ lớn trong năm... tất cả những tài liệu này đều quý báu, ghi đậm dấu ấn bước chân hoằng pháp lợi sinh của nhị vị Trưởng Lão. Xin quý Ngài và quý vị hoan hỷ gởi tài liệu qua email: [email protected] trước ngày 20-04-2016 để Ban
26/03/2016(Xem: 8217)
Viên Giác tự – Chùa xưa còn đó mà Thầy đã quãy dép quy Tây Chùa Viên Giác tọa lạc trên một khu đất rộng trên đồi cao tại Cầu Đất, xã Xuân Trường, Tp Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, cách trung tâm thành phố ngàn hoa khoảng chừng 30 km về hướng Đông Nam, trên độ cao 1650 m. Điểm nhấn của Cầu Đát có đồi chè với màu xanh ngắt ngút ngàn là một trong hai điểm đến mới nổi cực kỳ thu hút khách du lịch Đà Lạt tới tham quan. Trải dài trên diện tích 230 ha, đồi chè Cầu Đất dễ khiến những tín đồ của màu xanh lá phải bàng hoàng ngỡ ngàng trước cảnh sắc “đất xanh ngắt, trời xanh trong”. Thêm vào đó, không gian yên tĩnh, không khí mát lành cùng hương gió vấn vương vị chát chát đặc trưng của chè càng khiến Cầu Đất thêm phần hấp dẫn và lôi cuốn. Năm ở độ cao khoảng trên 1000m so với mực nước biển nên cảm nhận đầu tiên khi dừng chân tại chùa Viên Giác – Cầu Đát chính là nền nhiệt khác hẳn với quãng đường bạn đã băng qua trước đó. Vừa đến chân đồi việc đầu tiên cảm nhận được chính là sương mù. Đặc biệt vào nhữn
21/03/2016(Xem: 9884)
Chùa Đức Viên được Sư Bà Đàm Lựu sáng lập vào năm 1980. Sư Bà người làng Tam xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, Việt Nam. Xuất gia từ nhỏ tại chùa Cự Đà, năm 1951, Sư Bà thọ giới Tỳ kheo ni tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Năm 1952, Sư Bà học đạo tại chùa Dược Sư, Sài Gòn. Năm 1964, Sư Bà đi du học ở Tây Đức. Năm 1979, Sư Bà đến Hoa Kỳ. Năm 1980, Sư Bà về thành phố San Jose hành đạo và sáng lập chùa Đức Viên. Sau 19 năm tận tụy, chăm lo việc đạo, việc đời, Sư Bà quy Tây năm 1999. Việc tiếp tục kiến tạo ngôi già lam trang nghiêm, an tịnh, nổi tiếng được các Ni sư Đàm Nhật, Ni sư Đức Hòa cùng Ni chúng và quý Phật tử tín tâm thực hiện trong nhiều năm qua.
11/03/2016(Xem: 29142)
Tin từ Thượng Tọa Thích Nguyên Đạt, Chùa Việt Nam, Texas, hôm Thứ Năm, 10-3-2016, cho biết rằng Thầy Thích Nhuận Châu, tại Thành Phố Tampa, Florida đã tịch vì tai nạn xe. Theo bản tin của trang mạng Đài Truyền Hình Bay News 9 hôm Thứ Tư, 9-3-2016, được cập nhật hôm Thứ Năm, 10-3, chi nói đến một người đàn ông 40 tuổi mà không cho biết danh tánh là ai, nhưng tin từ Thầy Nguyên Đạt cho biết đó là Thầy Thích Nhuận Châu. Sau đây là bản dịch tin của trang mạng Bay News 9.
17/02/2016(Xem: 8574)
Hoà thượng Thích Giải Trọng thế danh là Đinh Quý, sinh ngày mồng 06/11/Bính Tuất tại làng Ngọc Tứ, xã Thanh Phong, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là thôn Ngọc Liên, xã Điện An, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Con ông Đinh Tín, pháp danh Như Tín và bà Đoàn Thị Giảng pháp danh Thị Thuyết, một gia đình có truyền thống Phật Giáo. Hoà Thượng là con thứ 4 trong gia đình có 6 người anh em, 3 trai và 3 gái.
01/02/2016(Xem: 22146)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
01/02/2016(Xem: 15082)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
23/01/2016(Xem: 12682)
Kính cảm đức, bậc Lão Tăng Trưởng Thượng, Chúc Ngài thường an lạc mãi trăm năm, Mừng tôn vinh, Đạo nghiệp sáng trăng rằm, Đại đức trọng, gương giữa đời phàm trược.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]