Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng Niệm Ân Sư, Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường (1932-2017)

14/02/202319:16(Xem: 2333)
Tưởng Niệm Ân Sư, Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường (1932-2017)


Tưởng Niệm Ân Sư
Cố Hòa Thượng Thích Phước Đường
(1932-2017)

 

 ht phuoc duong

 

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

 

Kính Giác linh Thầy

Con về đến Trúc Lâm thứ ba, trưa ngày 18.7. 2017 trời nắng gắt, hình bóng Thầy đâu không thấy chỉ thấy hai chiếc xe hoa đã kết sẵn để đưa Thầy đến nơi làm lễ Trà Tỳ, tim con như tan nát thành mảnh vỡ. Trời ơi! Có thể như vậy được sao? Suốt quãng đường dài từ Đức qua Pháp con chỉ mong sao đây không phải là sự thực, con không muốn tin dẫu biết rằng thế gian vô thường, tất cả rồi sẽ tan hòa vào vũ trụ.

Con vội vã lên thiền đường để kính lễ Giác Linh Thầy, chân con run rẩy con đi không vững nữa. Thầy nằm đó an nhiên, tự tại nét mặt hiền hòa. Con quỳ xuống bên Thầy đảnh lễ, nước mắt con tuôn trào.

Quanh chùa đông người sao vắng lặng trong con, đâu đâu con cũng thầy hình bóng Thầy, sáng thật sớm 3 giờ Thầy dậy tụng kinh, 6 giờ điểm tâm rồi Thầy về liêu phòng nghỉ chút xíu tới 7 giờ Thầy xách từng bình tưới thật to tưới từng cây cỏ từ sân chùa đến đỉnh đồi trong yên lặng, có lẽ Thầy nói chuyện nâng niu cỏ cây, sau đó khoảng 10 giờ Thầy tới tháp Địa Tạng chú nguyện cho từng hũ cốt hương linh ở chùa, Thầy thầm lặng trong chánh định rải tâm từ bi đi khắp mọi nơi….

Một ngày một đêm ở chùa con chỉ muốn đi nhiễu quanh kim quang Thầy để niệm Phật, con chỉ muốn ở bên Thầy cho trọn vẹn nhưng rồi con nghĩ, con phải tôn trọng khách đến viếng Giác Linh Thầy như trong chùa đã định, giữ sự trang nghiêm chỉ mười người được viếng rồi lui ra.


ht phuoc duong-2

 Hòa Thượng Thích Phước Đường đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ 53 phút ngày 12-7-2017 (nhằm ngày 19-6-Đinh Dậu) tại thiền viện Trúc Lâm Paris, số 9 Rue Neuchatel, 91140 Villebon / Yvette, Paris (Pháp). Trụ thế: 85 năm; Hạ lạp: 49 năm. Lễ nhập kim quan cử hành vào ngày 14-7-2017 (nhằm ngày 20-6-Đinh Dậu). Kim quan Hòa thượng được tôn trí tại thiền viện Trúc Lâm Paris. Lễ viếng từ ngày 14 đến hết 18-7-2017 (21 đến 25-6-Đinh Dậu). Lễ Trà-tỳ được cử hành vào ngày 19-7-2017 (26-6-Đinh Dậu).



Buổi tối con lên tháp A Nan Đà để ngủ, ngang qua phòng Thầy cửa đã khép kín, con nghẹn ngào muốn khóc, nhớ hôm nào đến thăm Thầy, Thầy đã gọi con vào phòng và cho con bức tượng Quán Thế Âm Thầy mang từ Việt Nam về, Thầy nhắn nhủ dạy con rằng con nương theo hạnh Quán Thế Âm giúp những ai cần đến theo tiếng kêu cầu và Thầy rất vui khi biết con thường làm các việc thiện lành. Thầy kể con nghe ngày còn sa di Thầy vất vả khá nhiều nhưng lòng vẫn vui  vì đó là hạnh nguyện, Thầy kể những ngày làm thư ký cho hãng xì dầu do Pháp Sư Giác Đức sáng lập để nuôi học chúng…

Cả đêm trằn trọc con nghĩ tới Thầy, hơn năm trời con trôi nổi theo dòng đời, theo các việc thiện nguyện, nhiều lần nhớ tới Thầy con điện thoại thăm mà không được, con hối hận đã không để thời gian ra viết thư thăm Thầy như những năm về trước nếu như con không điện thoại được, dù lúc nào con cũng nghĩ tới Thầy với một lòng thương kính.

Con còn nhớ có lần con sắp đi làm ca đêm, 9 giờ tối Thầy gọi dt cho con nói „Diệu Danh tối nay lạnh, con đi làm mặc áo ấm, nhớ tới con làm đêm Thầy viết cho con bài thơ, rồi Thầy đọc con nghe:

 

VẪN CÒN

Người đi về giữa khuya

Phố xá im như chết

Lo loét đèn ai kia?

Gánh quà đêm chưa hết

Lạnh ướt sương đầm đìa

Văng vẳng đâu tiếng ếch

Người đi về giữa khuya

Bóng trên đường lẻ chiếc

Ngẩng đầu ngó trời kia

Còn ngấn trăng soi biếc

 

Trời ơi, con đã khóc thật nhiều lòng từ của Thầy cho con nhiều quá! Thầy nhìn con qua hình ảnh người đàn bà Việt Nam cực khổ, nhẫn nhịn, gánh hàng đêm để nuôi con ăn học, phụ giúp chồng gánh vác giang san nhỏ bé của gia đình vò võ ban đêm với gánh hàng chưa bán hết. Con bên này giữa đêm trường, một mình lái xe hơi, trời mùa đông giá lạnh với sương mù vây phủ chỉ nghe trên đường tiếng bánh xe con lăn, con ngậm ngùi, mùa đông trời xứ Đức không có trăng chỉ có màn đêm dầy đặc nhiều khi con nghĩ mình lẻ loi, quờ quạng trong sương mù, nhưng con đã có Thầy soi sáng tâm linh cho con. Pháp thân Thầy tỏa chiếu, lòng từ bi Thầy vô lượng vô biên un đúc cho con hạnh lành mà con ráng đời này gieo chút nhân lành, con quên cả những nhọc nhằn trong đời sống.

 Thầy ơi! Giờ con hiểu ra ngấn trăng soi biếc là pháp thân Thầy, là tình thương của vị Thầy đã dành cho đệ tử mình. Thầy ơi! Từ nay con không còn Thầy nữa, con một mình lẻ loi, không còn ai nhắc nhở con mặc áo ấm, nuôi các cháu ăn học, hiếu thảo với Mẹ Cha, sống nương theo đời nhưng luôn giữ cho mình giới hạnh- Trước Giác linh Thầy con hứa đời đời kiếp kiếp tu hạnh lành, làm điều lành để không phụ ân Thầy đã dưỡng dạy con.

Thầy ra đi nhằm mùa An Cư Kiết Hạ của Chư Tăng, cửu tuần nhiếp tâm tu học, nhơn nhơn tấn đạo nghiêm thân, huân tu tứ hoằng thệ nguyện, xứ xứ đàn na hộ pháp, hộ đạo, trợ duyên, cận đáo thời tự tứ, ngưỡng báo đáp Phật ân, chư Tăng thúc liễm thân tâm, sách tấn đồng tu, nghiêm trì luật tạng, gìn giữ thanh quy, nêu cao tinh thần lục hòa cộng trụ, thường hành giới, định, huệ trang nghiêm, tấn tu đạo nghiệp và tam vô lậu học, trì kinh nhị khóa công phu nhằm hồi hướng Thượng báo trọng ân, Hạ tế tam đồ khổ.

Là Phật tử con nguyện nhất tâm tu trì để đáp đền ơn trong muôn một của Chư Phật và „báo nghĩa ân sư huấn dục chỉ thâm ân, đáp tình Phụ Mẫu sinh thành chi hiếu đạo“.

„Ân giáo dưỡng một đời nên huệ mạng.

Nghĩa Tôn Sư muôn kiếp khó đáp đền“

Dù là một chữ cũng Thầy

Dù là nửa chữ cũng đầy ân sâu

Mai này vào cuộc biển sâu

Lời Thầy là những hạt châu soi đường



ht phuoc duong-4ht phuoc duong-3ht phuoc duong-2ht phuoc duong-1


 

Bạch Thầy,

Con nhớ nhiều quá, nhớ lần ghé thăm Thầy có anh chị Tôn Hoa, dì Tiết, dì Minh, chị Bảo, sáng dậy, con định đảnh lễ Thầy để về lại Đức, Thầy gọi con lại rồi hỏi: „Diệu Danh, con nói Thầy nghe 14 lời Phật dạy“ . Mô Phật Thầy ơi, con đã không trả lời được, con chỉ nhớ mỗi điều 14 nhưng rồi không dám trả lời. Thầy nhìn con rồi nói: „ Thầy cho con bao nhiêu lời dạy của Đức Phật cũng không đủ, con còn đi xin thêm rồi cho người khác, giờ Thầy hỏi con không biết“  thế rồi Thầy bắt con đứng lại đọc 14 lời Phật dạy trên tấm bảng có sẵn cho Thầy nghe, mọi người nhìn con, con mắc cỡ cúi đầu xuống và đọc từng câu:

 

  • Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình
  • Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá
  • Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
  • Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị
  • Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình
  • Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu
  • Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti
  • Khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã
  • Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng
  • Tài sản lớn nhất của đời người là sức khỏe, trí tuệ
  • Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm
  • Lễ vật lớn nhất của đời người là sự khoan dung
  • Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết
  • An ủi lớn nhất của đời người là bố thí


Thầy kính! Con biết, con biết vì thương con nên Thầy nhắc nhở con học những lời dạy cao quý của Đức Phật áp dụng cho đời sống mà con đang sống, con hiểu Thầy dạy con „cho người những cái mà mình đã có và đã hiểu, làm việc gì cũng do từ tâm, trong chính niệm, con biết Thầy tình thương Thầy dạy dỗ con rất nhiều, dù chỉ qua ánh mắt.

Rồi khi Thầy thấy cô Minh cho con quả lê con cầm, Thầy lại rầy con: „con đã có rồi, có nhiều nhất Thầy cho con trước nhất vậy mà cô Minh cho con cũng cầm, may mà có Thầy ở đây con còn làm như vậy…“ con đâu dám cãi, nhưng từ trong đáy lòng con nhận quả lê cho cô Minh vui, cô nói với con cô bị bệnh đường không ăn được. Con rất vui và cảm động trước sự giáo huấn của Thầy như đấng từ phụ mà Thầy dành cho con.

 

Thứ tư, 19.7

Ba hồi trống Bát Nhã vang lên, Nhà đòn đã đến đóng kim quang Thầy, con nấc nở nghẹn ngào, thế là từ con không còn nhìn thấy bóng dáng từ hòa của Thầy nữa, con lẳng lặng theo sau Tăng Đoàn, và hàng Phật Tử niệm A Di Đà, bao nhiêu cánh hoa được tung lên để cúng dường Thầy, như Trời rưới hoa Mạn Đà và rồi bài thơ năm nào Thầy viết cho Sư Bác lại hiện về trong trí con rõ ràng, ngời sáng hình ảnh hiện ra như trước mắt con

 

Bóng Thầy

 

Ba hồi chuông trống vút lên mây

Chín phẩm liên hoa nở đón Thầy

Nắng đẹp Trung Thu rằm tháng Tám

Linh quang chiếu diệu sáng trời Tây

 

Chim ở quanh đồi trổi diệu âm

Gió theo nhập thất quyện hương trầm

Bóng Thầy cao ngự mây năm sắc

Vang dội lời vàng sáng đạo tâm.

 

Như chuyến vân du Thầy nhẹ bước

Ngàn tay lá trúc bái ân thâm

Ngàn tay Phật tử cùng uy đúc

Mãi mãi hưng Thiền viện Trúc Lâm

(Thích Phước Đường)

 

 và rồi con không khóc nữa, con hiểu Thầy đã vân du theo Đức Phật, ngày 19.6 vía Quán Thế Âm Bồ Tát như hạnh nguyện của Thầy xuống trần gian để hóa độ chúng sanh. Bầu trời trước đó chuyển mưa âm u vần vũ, nhưng khi linh quang Thầy ra đến cổng trời rực sáng, như hào quang của Chư Phật đón Thầy về để rồi Thầy sẽ trở lại Ta Bà như lời Thầy hứa khả hóa độ chúng sanh.

 

 

Kính dâng lên Giác Linh HT thượng Phước hạ Đường        

 

12.7.2017 rừng núi thiêng rung động

Những người con cung kính chấp tay chào

Tiễn đưa Thầy về Cực Lạc Quê Hương

Ơn cứu độ muôn loài cùng thương tiếc

Trên hư không Thầy vẫy tay từ ái

« Hỡi các con, lắng nghe lời ta dạy

Ta trở về chuyển hóa khắp muôn phương

Hóa thân ta sẽ đi khắp mọi miền

Hạt bụi nhỏ vẫn vương lời kinh tụng

Thân tứ đại nay trở về trong vũ trụ

Không gian này còn vang mãi pháp âm

12.7 miền Tịnh Độ an vui

Hoa sen nở tung bay miền Cực Lạc

Đón vui Thầy trở lại với Quê Hương

85 năm trụ đời, 54 năm hạ lạp

Pháp nhiệm màu Thầy rải khắp muôn phương

Lời kinh Phật chuyển lưu đời nhân thế

Thầy đã trở về trong hào quang rực rỡ

Chuyển hóa đời trong dòng điệu luân lưu

Ơn hóa độ Thầy ban chúng con xin ghi tạc

Dụng lời kinh chuyển hóa niệm bình an

Nam Mô Từ Phụ Di Đà

Pháp lành mầu nhiệm con dâng cúng dường

Thành tâm đảnh lễ Mười Phương

Hoa thơm lan ngát chân như diệu thường

 

Sáng nay con đi thiền hành vào rừng nơi gần nhà con ở, con đã ngắt từng cánh hoa mà con vừa cúng dường Đức Quán Thế Âm xong, con vừa đi vừa rải tung bên hai hàng cây để rồi lại cúng dường Giác Linh Thầy, trời nắng gắt nhưng có những làn gió nhè nhẹ thổi khiến tâm hồn con dễ chịu, con vừa đi vừa nhớ tới lời Đức Phật nói với ngài Anuradha:

-Này Anuradha, con nghĩ sao cái gì không có sắc, thọ, tưởng, hành và thức có phải là Như Lai không?

-Thưa không, Bạch Thế Tôn

-Này Anuradha, vì không tìm thấy Như Lai trong đời sống này, con có thể nói như thế này không: Đấng cao quý và tối thượng đã nhấn mạnh và giải thích bốn mệnh đề sau đây:

Một Như Lai hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai không hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai hiện hữu và không hiện hữu sai khi nhập diệt

Một Như Lai chẳng có mà cũng chẳng không có sau khi nhập diệt?

Thưa không, Bạch Thế Tôn

Lành thay! Anuradha. Trước đây và bây giờ cũng vậy, ta chỉ giải thích và nhấn mạnh chân lý của khổ đau và sự chấm dứt khổ đau.

 

Con thấy Thầy hiện ra trong con, trong tất cả, Pháp Thân Thầy là bài kinh vi diệu của lòng từ mẫn mà con phải kính thành đảnh lễ, những cánh hoa con trải để cúng dường Thầy tung bay khắp nơi, như những hạt giống lành mà Thầy đã gieo trồng cho hàng Phật tử chúng con.

 

Màu nhiệm thay! màu nhiệm thay!

Từng cánh sen nở! từng búp sen nở!

Ánh hào quang rực rỡ chiếu muôn phương

Đức Phật đó A Di Đà thân kim sắc

Cùng Đức Quán Âm, Ngài Thế Chí theo cùng

Biết bao Bồ Tát hiện thân

Rước người về đó chốn lành an vui

Nam Mô niệm Phật Di Đà

Cho Người cõi thế chan hòa niềm vui

Đâu đâu cũng tiếng nhạc trời

Ta Bà Tịnh Độ khắp nơi an lành

Chấp tay con quì xuống

Dòng nước mắt tuôn rơi

Nam Mô Từ Phụ Di Đà

Cha lành độ khắp muôn loài chúng sanh

Hôm nay con phát nguyện rằng

 Lòng thương rộng mở khắp cùng nhân gian

 

Con thành kính cúi đầu đảnh lễ và nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Phước Hạ Đường

Một tánh linh minh,

Tây Phương trực vãng

Ba thân thanh tịnh,

Chánh giác vị thành

Chứng pháp nhẫn vô sanh

Ngộ chơn thừa đại định

 

Ngưỡng nguyện Giác Linh Hòa Thượng cao đăng Phật quốc, bất vong nguyện lực, tái hiện đàm hoa, thể nhập Ta Bà, tồi tà phụ chánh, ứng hóa dộ sanh, khứ lai tự tại.

Thành tâm xin Giác Linh Ân Sư chứng giám

Đệ tử kính bái,

Diệu Danh

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 5818)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5611)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5885)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 12099)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 12050)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6421)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 7096)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7654)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 9093)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 10416)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]