Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc đời và Hành trạng của Hòa Thượng Thích Liễu Minh

05/09/202217:28(Xem: 4067)
Cuộc đời và Hành trạng của Hòa Thượng Thích Liễu Minh


ht lieu minh 1

Cuộc đời và Hành trạng của
Hòa Thượng Thích Liễu Minh




1. THÂN THẾ
Hòa thượng Thích Liễu Minh, tên thật là Lê Văn Hiến, Pháp danh Thị Huyền, Pháp tự Liễu Minh, hiệu Trí Hải, sinh ngày 7/3/1934 (nhằm ngày 3/2 năm Giáp Tuất), tại thôn An Hòa, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Nghĩa Bình (tức tỉnh Bình Định ngày nay).

Thân phụ là cụ ông Lê Cấm (tự Chấn), thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Nhĩ (tự Sĩ), Hòa thượng là con trai một trong gia đình có hai chị em, được sinh ra trong một gia đình nho phong lễ giáo, tin sâu nhân quả, kính thờ Tam Bảo. Từ thuở nhỏ, cậu bé Hiến thường được cha mẹ hướng dẫn đi chùa. Trong những lần đi chùa, cậu bé Hiến được diện kiến Hòa thượng chùa Linh Sơn. Hòa thượng thấy cậu bé có Tuệ căn thông minh hơn những đứa trẻ khác nên gởi cho Hòa thượng Thích Như Từ chùa Thiên Bình xoa đảnh thọ ký xuất gia khi tuổi đời vừa lên 10. Tuy tuổi còn khá nhỏ nhưng với Tuệ căn sẵn có và được Hòa thượng un đúc ý chí xuất gia, sau 5 năm công quả tập sự tại chùa Thiên Bình, chú Liễu Minh được Hòa thượng Bổn sư cho phép thọ giới Sa Di tại chùa Thiên Bình, do Hòa thượng Thích Tâm Đạt làm Hòa thượng đàn đầu truyền giới vào ngày 8/4/1950 (năm Canh Dần).



Từ đây, thầy Sa-di Liễu Minh lại thêm tinh tấn vượt trội, Thầy thuộc nằm lòng hai thời công phu sớm chiều, Thầy còn nhuần nhuyễn 4 bộ Luật Trường hàng, ngày đêm siêng năng chẳng sao lãng việc chấp tác tại bổn Tự được giao phó. Xét thấy đệ tử mình là một học trò giỏi và đủ giới hạnh, có thể dự vào hàng Tăng chúng Thích tử của Như Lai nên Hòa thượng bổn sư đã hoan hỷ gởi Thầy Liễu Minh vào miền Nam đăng đàn cụ túc thọ giới Tỳ Kheo do Đại lão Hòa thượng Thích Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu truyền giới Tỳ Kheo tại chùa Ấn Quang – Sài Gòn ngày 8/4/1956 (năm Ất Mùi), ban cho Pháp danh Thị Huyền, tự Liễu Minh, hiệu Trí Hải, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42. Ôi:

Hoa nở giữa trời không vướng bận,
Lòng vui chào đón bậc Trung Tôn!

2. THỜI GIAN TU HỌC VÀ HÀNH ĐẠO

Khi còn ở quê nhà Bình Định, Hòa thượng Thích Liễu Minh đã được theo học tốt nghiệp các lớp Phật học, và lại tiếp tục theo đuổi con đường học vấn tại Phật học viện Nha Trang. Với chí học không mệt mỏi, thành tích học lực vượt trội nên Ban Giám Hiệu tại Phật học viện Nha Trang đã giới thiệu Hòa thượng vào trường cao học Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang – Sài Gòn năm 1965.

Khi tốt nghiệp ra trường, Hòa thượng đạt thành tích tương đương Tiến sĩ Đông Phương học ngày nay, không chỉ giỏi về Phật học mà Ngài còn thông suốt cả thế học. Với sự tinh thông nhạy bén Đạo – Đời, ai hỏi gì Ngài liền trả lời ngay nên mọi người lúc ấy rất nể trọng, xem Ngài như một quyển Tự điển sống. Với sự tin tưởng của các bậc Trưởng lão Hòa thượng, Ngài được mời về Viện hóa đạo phục vụ làm việc ở thập niên 70, đem Giáo Pháp của Phật phổ hóa đến khắp nơi, hàng Tăng Ni và Phật tử được thấm nhuần giáo lý mà Ngài đã ban bố. Ai đã từng tiếp xúc với Ngài đều hoan hỷ với nụ cười luôn nở trên môi, luôn sống hạnh giản dị, xả kỷ vị tha của Ngài.

Khi đất nước hòa bình, Ngài xuôi về miền Tây tiếp tục con đường hoằng Pháp lợi Sanh, Ngài đến chùa Thanh Quang tại Thành phố Mỹ Tho lưu trú một thời gian trên bước đường du phương hoằng hóa của người con Phật.

Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Chỉ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu.



Ban ho tri An QuangH.T Lieu Minh & H.T Hộ GiacH.T Lieu Minh
H.T Lieu-Minh 2


Vào thập niên 80, trong một vùng xa xôi hẻo lánh của chợ Bưng, một ngôi tự viện rêu phong đổ nát, không có thầy hương khói tụng niệm và hoạt động Phật sự, môn đồ tứ chúng đã bày tỏ ý nguyện và cung thỉnh Ngài về Trụ trì chùa Nhơn Phước, ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang vào năm 1988. Quán xét nhân duyên hóa độ chúng sanh đã đến nên Ngài đã nhận lời về chùa Nhơn Phước làm Trụ trì cho đến ngày viên tịch.

Trải qua 27 năm ở tại chùa, Ngài đã trùng tu hoàn toàn lại ngôi chùa và ngôi đình Nhơn Hội được xây dựng khang trang tốt đẹp, có nơi trang nghiêm cho hàng Phật tử về chiêm bái và tu học. Về mặt công tác từ thiện cứu đời, Ngài luôn tiên phong và ủng hộ hết lòng qua những việc xây dựng cầu đường, tặng nhà tình thương, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, tặng quà cho bà con nghèo và trẻ em nghèo hiếu học tại địa phương. Với Bi tâm rộng lớn, Ngài dùng Y Phương Minh (Vô Vi Ấn Pháp) để trị bệnh cứu đời. Ai cần gì đến Ngài, Ngài liền hoan hỷ ban bố từ vật chất đến giáo lý Phật đà.



Cố Hòa thượng Mật giả Thích Liễu Minh bên mái chùa Nhơn Phước từng là nơi Ngài mật hạnh hóa độ biết bao chúng sanh quy Phật tu hành…

Trong những năm hành đạo, Ngài đã tế độ hàng nghìn Phật tử quy y Tam Bảo, độ chúng xuất gia nương theo đức hạnh của Ngài trên bước đường tu học, trong đó có những vị đệ tử xuất gia đã được tiếp nối theo ý nguyện của Ngài, “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” như:

– Thượng tọa Thích Đức Thành
– Đại đức Thích Nhuận Đức
– Đại đức Thích Trung Chánh
– Đại đức Thích Minh Phước
– Đại đức Thích Viên Trí

3. THỜI KỲ THỊ TỊCH

Khi mãn mùa An cư kiết Hạ PL.2559 – DL.2015 (Ất Mùi), Ngài cảm thấy thân tứ đại giả hợp đến hồi tan hoại, Ngài sắp xếp và dặn dò mọi chuyện với hàng đệ tử những việc làm sau này khi Ngài viên tịch.

Ngày 15/10/2015 (tức ngày 3/9 năm Ất Mùi), Ngài thấy thân tứ đại bất hòa, hàng đệ tử muốn đưa Ngài đến bệnh viện để tịnh dưỡng nhưng Ngài nhất định không đồng ý.

Tuy thân tứ đại sắp hoại diệt nhưng Ngài vẫn hoan hỷ dạy bảo các đệ tử những lời Pháp nhũ sau cùng, và Ngài đã xả báo an tường, an nhiên thị tịch vào lúc 17:30 ngày 20/10/2015 (nhằm ngày 8/9 năm Ất Mùi).

Kính bạch chư Tôn Đức!

Kính thưa Quý liệt vị!

Cuộc đời của Hòa thượng Thích Liễu Minh là một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo, là ánh đuốc trong đêm đen cho người lạc lối tìm về. Nay tuy Ngài đã về cõi Niết Bàn Vô Sanh nhưng chúng con luôn khắc ghi hình bóng và lời dạy của Ngài trong tâm khảm của hàng đệ tử chúng con.

Chúng con nguyện sẽ mãi mãi tinh tấn tu học để không phụ công ơn giáo dưỡng của Ngài.

Nam mô Việt Nam Phật Giáo Phụng vì từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ thập nhị thế Húy Thị Huyền Hiệu Trí Hải Thượng Liễu Hạ Minh Hòa thượng Ân Sư Giác Linh Đài Tiền chứng giám!










Đôi dòng tiểu sử trên không thể nói hết công hạnh tu hành và hóa độ chúng sanh của Ngài, vị Mật giả có mật hạnh thâm sâu, vô ngã vô tướng độ tử – độ sanh biết bao người và chúng sanh khắp mọi cảnh giới quy Phật tu hành. Được tận mắt chứng kiến những mật hạnh của Ngài như:

– Ăn uống chỉ tự mình lo mà không phiền đến bất cứ ai dù tuổi rất cao, lại cách 3 – 4 ngày mới dùng 1 bát cháo lỏng hay nước của các loại rau củ nấu cùng để uống dần.

– Mặc áo thun rách, quần vải ú, đi chân trần. Nhiều năm không tắm mà người chẳng hôi.

– Chỗ ngủ nghỉ chỉ giản đơn 1 tấm chiếu bạc, cái gối và mùng.

– Mỗi sáng hay chiều thường hay tự đi kiếm củi về dùng. Chiều đến chỉ trụ tại chùa 1 mình để tọa thiền độ chúng sanh trong Thập phương Tam cõi, không cho ai ở lại.

– Với bao người bệnh do nghiệp duyên, oán trái, bùa ngãi, thư ếm, Tà lậm… đến nhờ thì Ngài trì mật chú chư Phật để hóa độ mọi thành phần nương vào, cho âm siêu dương thới chỉ bằng 2 bàn tay với Vô Vi Ấn Pháp của nhà Phật.

– Trọn đời Ngài không thủ giữ tiền bạc cúng dường của Thập phương Thiện – Tín. Ngài chỉ chuyên tâm lo trị bệnh độ chúng như mật nguyện mà thôi.

Người bệnh đến chùa nhờ Ngài hóa độ gồm đủ mọi tầng lớp trong xã hội, từ bình dân đến trí thức, cư sĩ đến cả tu sĩ trong và ngoài nước. Có người bệnh ung thư do nghiệp sát nhiều đời; có người trí thức đang làm việc bỗng bị tâm thần mà không rõ lý do; có người làm kinh doanh bị thư ếm vì cạnh tranh trên thương trường; có người vì oan gia trái chủ đời nào mà bị đòi mạng, nương gá vào thân sanh đủ chứng bệnh nan y, tâm loạn điên đảo; có vị cán bộ xã mang người thân bệnh đến nhờ Ngài giúp… Điển hình cho tầng lớp trí thức là vị Giám đốc Bệnh viện Phú Thọ (vừa là bác sĩ vừa là võ sư, theo đạo Chúa) bị bệnh nan y ra nước ngoài chữa trị nhưng vô phương cứu chữa, đành trở về sống trong tuyệt vọng. May thay, vợ ông có người bạn là Phật tử (đã từng nhờ Ngài độ cho dứt bệnh) khuyên bảo tận tình: “hãy tới nhờ Ngài giúp cho, y học phương Tây đã bó tay, mạng xem như không còn thì có gì phải chấp nhất (đạo) nữa” nên vợ chồng ông thu xếp xuống chùa, nhờ Ngài hóa độ. Kiên trì một thời gian nhờ Ngài độ cho mà ông đã hết bệnh, từ đó cải đạo chuyển sang kính tín Tam Bảo, quy y Phật đà, hỗ trợ tịnh tài tu sửa chùa nghèo cho thập phương Thiện Tín có ngôi Tam Bảo trang nghiêm đảnh lễ, có nơi nghỉ trưa trong thời gian chờ trị. Ngoài ra, tại tầng trên cùng của Bệnh viện Phú Thọ, ông còn tự mình thiết lập 1 bàn thờ Phật trang nghiêm để thuận tiện lễ Phật, sám hối mỗi ngày. Về phía tu sĩ, có không ít vị là trụ trì Chùa, Tịnh xá, điển hình như Hòa thượng Thích Giác Thới (trụ trì Tịnh xá Ngọc Thuận), Hòa thượng Thích Giác Giới (trụ trì Tịnh xá Ngọc Viên), Hòa thượng Thích Nhất Hạnh (Làng Mai – Pháp)… đều đã từng đến nhờ Ngài trị bệnh, hóa giải oan khiên chướng duyên nhiều đời, trợ lực cho đạo tâm được vững vàng, tinh tiến.

Để trị bệnh, Ngài dùng Vô Vi Ấn Pháp Tam Muội để gia trì, Từ tâm để hóa độ giúp chúng sanh khắp cõi đang nương gá nơi thân người bệnh được khai tâm mở trí, thấu rõ nghiệp duyên oán báo tuần hoàn vay trả – trả vay biết bao giờ dứt mà tự tâm hoan hỷ buông xả, tỏ lòng sám hối, quy Phật tu hành, gọi là âm siêu. Còn người bệnh do nhờ nghiệp duyên oán trái được Ngài hóa giải, “chủ nợ” nhẹ “siêu” nên hết bệnh, thân tâm an hòa, từ đó thấu rõ vô thường, nhân quả nghiệp báo mà càng tín tâm nơi Tam Bảo, dốc lòng sám hối tu hành, làm lành lánh dữ…, gọi là dương thới. Đó chính là nghĩa âm siêu – dương thới nhà Phật, và chỉ có bậc chơn tu đạo hạnh xuất thế, hạnh nguyện tương ưng với Chư Phật mới có thể làm được như vậy mà thôi!

Những mật chú Ngài thường trì để trị bệnh độ chúng là Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn, Vãng Sanh Chơn Ngôn, Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn, Chuẩn Đề Chơn Ngôn…, hay đơn giản chỉ là câu niệm: Nam mô A Di Đà Phật. Rõ thấy, bậc chơn tu chỉ Tâm trì chú (hay niệm Phật) cùng hai tay với Vô Vi Ấn Pháp nhà Phật (Tam mật) mà đã hóa độ “âm siêu dương thới” cho tỉnh giác, hướng Phật tu hành, thật là bất khả tư nghì. Nhớ lời Ngài năm xưa đã từng bảo ban: “Khi trị bệnh, Sen từ người Thầy bay qua người bệnh đó con. Sen này đâu phải dễ có, nếu không có công phu Giới – Định – Huệ, tâm Từ hải hà vô lượng. Sen từ Thầy bay qua, đó gọi là gieo chủng tử Phật cho người sống cũng như đã khuất”, nào phải câu nệ nơi sắc tướng lễ nghi rình rang, đàn tràng gấm hoa lòe loẹt… trong mê sự. Thế mới biết hạnh nguyện và tâm hành hóa độ chúng sanh rốt ráo của bậc Đại sĩ là bất khả tư nghì! Thế mới biết Đạo Phật vi diệu nhiệm mầu, không thể nghĩ bàn; và chỉ có Phật đạo mới giải nghiệp rốt ráo, độ tận chúng sanh mà thôi!

Nhớ có lần Ngài chia sẻ: tại những nơi thường xảy ra tai nạn giao thông chết người thường rất dễ bị tai nạn xảy ra do các vong người chết tại đó gây ra. Có lần, vong nương gá nơi người bệnh kể rằng tại ngã 4 Đồng Tâm, Tiền Giang, hôm đó do nghiệp oan trái nhiều đời với vài người trên xe (16 chỗ) mà vong muốn hất tung cho xe ngã để họ chết, nhưng trên xe có vị Phật tử cứ niệm Phật hoài, khiến cho vong dù cố hết sức đòi mạng cũng không sao làm được. Đó cũng là lý do vì sao tại những nơi ấy, người dân thường đặt Miễu thờ. Vì vậy, Ngài dạy rằng hãy nhớ niệm Phật khi đi trên đường đến bất cứ đâu, và tại những nơi xảy ra tai nạn, đừng bao giờ khởi tâm tội nghiệp vì họ (người mới mất) sẽ lập tức đeo bám theo ngay. Thay vào đó, hãy miên mật tâm niệm Phật chứ đừng nghĩ tưởng gì thì tất cả, người sống cũng như kẻ khuất, tự nhiên được Pháp lạc mà thôi!

Chùa xưa cảnh cũ còn đây, nhưng Thầy đã vắng bóng. Đệ tử Cổ Thiên viết những dòng này, tâm thư tưởng niệm ân đức Thầy trọn đời vì Phật Pháp và chúng sanh. Một ngày gần đây, khi Phật sự in Kinh hoàn thành, con sẽ về thăm và kính dâng quyển “Đường Lối Tu Phật” để đảnh lễ Giác linh Thầy thùy từ chứng giám. Thầy trò ta, dẫu không theo lễ nghi “nhận Thầy – chọn Trò” như thường tình tại thế gian, nhưng tâm mật tương ưng, cảm ứng đạo giao, hỏi còn gì bằng. Con sẽ tiếp bước Thầy và Chư Phật vì mạng mạch Phật Pháp và độ tận Chúng sanh!

Đệ tử Cổ Thiên quỳ kính đảnh lễ Giác linh Thầy!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Nam Mô A Di Đà Phật _()_



————————————————


LƯU Ý

Như đã giảng trong bài VÔ NIỆM – SỰ QUY NHẤT CỦA THIỀN TỊNH MẬT, chỉ khi niệm Phật đến Vô Niệm, tức Niệm Phật Tam Muội, mới có thể ĐỘ SANH – ĐỘ TỬ (âm siêu dương thới) như Ngài. Nếu đạo hạnh chưa đến, đừng tự làm theo mà trị bệnh cho ai, sẽ tự chướng ngại mình, lợi bất cập h

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2019(Xem: 9702)
Tiểu La Nguyễn Thành, nhân vật kiệt xuất của đất Quảng Nam, người khai sáng Duy Tân Hội, nhà lãnh đạo xuất sắc đồng thời cũng là người tri âm, tri kỉ của chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu.
27/01/2019(Xem: 9986)
Thông Điệp Xuân Kỷ Hợi 2019 của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ
19/01/2019(Xem: 6733)
Thời gian là cái gì thật mầu nhiệm, không hình không tướng, tưởng như nó dửng dưng, lạnh lùng trước muôn sự, nhưng lại thầm lặng ân cần cất giữ những gì đã đi qua, rồi tùy đối tượng mà hoài niệm. Không ai nắm bắt lại được những tờ lịch đã rơi, nhưng bước chân của bao bậc hiền nhân quân tửđều như còn in hằn trong không gian khi thời điểm luân lưu trở lại theo vận hành của trời đất.
12/01/2019(Xem: 15327)
Thông Bạch Tết Kỷ Hợi 2019 Của Hội Đồng Giáo Phẩm Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ Sa Môn Thích Thắng Hoan
11/01/2019(Xem: 10626)
Co lẽ mùa trăng Thành Đạo 2562 – 2018 sẽ khó quên đối với nhạc sĩ Hằng Vang và gia đình, khi giữa bao cơn lốc thực dụng xâm chiếm nhiều ngõ ngách cuộc sống và lấn sang cả khu vực luôn được bảo trọng của tâm hồn trong từng con người: Trái tim ! Nếu nói về một sự tưởng thưởng hay tri ân thì nhạc sĩ Hằng Vang có thể còn đi bên trên những khuôn sáo, danh vọng đó. Hơn thế nữa sẽ không ai có thể nhân danh để ghi nhận sự tận tâm , cống hiến gần cả cuộc đời cho âm nhạc Phật giáo mà không hề đòi hỏi một đồng lương, một phần thưởng nào trong suốt 86 năm dài tận tụy của người nhạc sĩ lão thành hiện đang còn sống duy nhất bên chúng ta.
01/01/2019(Xem: 8554)
Hòa Thượng Thích Mãn Giác, pháp danh Nguyên Cao, đạo hiệu Huyền Không, thế danh Võ Viết Tín, sinh năm Kỷ Tỵ, 1929 tại Cố đô Huế, trong một gia đình mà Nội Ngoại đều tin Phật và nhiều nguời trong thân quyến đã có duyên xuất gia và nổi tiếng thân danh trên đường tác thành Phật sự. Cố đô Huế chỉ là sinh quán, còn nguyên quán thuộc làng Phương Lang, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
16/12/2018(Xem: 8540)
1.Bảo An Hòa Thượng Nhất Đại Tôn Sư Đại Hỷ Đại Từ Trung Nam Bắc Phái Tề Tâm Kính Ngưởng. 2. Phổ Bảo Danh Lam Thiên Ban Diệu Dụng Ban Tuệ Ban Ân Thượng Hạ Biên Phương Chí niệm Quy Y.
07/12/2018(Xem: 6883)
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội, sáng ngày 14.5.2008 đã khẳng định: “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân.
28/11/2018(Xem: 6348)
Thế là đã tròn 15 năm kể từ ngày Thầy giã từ cuộc mộng. Chuyến hóa duyên này của Thầy khá là dài.... Con bây giờ đi gần hết đời người, quá nửa việc ngày xưa lẫn ngày nay gần như quên bẵng, nửa còn lại nhập nhằng giữa đôi bờ mộng thực chông chênh. Thếmà, từng chi tiết về lớp học năm xưa vẫn sáng ngời, vẹn nguyên trên đỉnh đồi tâm thức.
25/11/2018(Xem: 12129)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một giáo viên, nhà thơ và nhà hoạt động vì hoà bình được kính nể khắp thế giới, với những lời dạy mạnh mẽ và các cuốn sách bán chạy nhất của Ông về chánh niệm và hòa bình. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một tăng sỹ Phật giáo Việt Nam nổi tiếng trên thế giới. Có tài liệu cho biết, tầm ảnh hưởng của ông trong cộng đồng Phật giáo Phương Tây chỉ đứng sau Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Lời dạy chủ yếu của ông là thông qua chánh niệm, chúng ta có thể học sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại, cách duy nhất để phát triển hòa bình, cả trong bản thân và toàn xã hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]