Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trọn Chút Tình (Thành kính tưởng niệm Ôn Phước Duyên - Viện Chủ Tăng Già Lam Phước Duyên- Huế)

27/06/202218:53(Xem: 1828)
Trọn Chút Tình (Thành kính tưởng niệm Ôn Phước Duyên - Viện Chủ Tăng Già Lam Phước Duyên- Huế)
Trọn Chút Tình.

Phương Trời Cũ, Tử Sinh Ngàn Mây Trắng.
Kiếp Tu Hành, Reo Gió Tuệ Nghiêm Thân.
Trao Mộng Huyễn, Phàm Trần Nơi Cõi Tạm.
Nguyện Lên Đường, Nhiếp Hoá Tịnh Bốn Ân.

Chốn Môn Phong, Từ Hiếu Xin Lưu Ảnh.
Rủ Áo Phàm, Khoát Tâm Phật Rong Chơi.
Ôn Thảnh Thơi, Dạo Bước Khắp Muôn Nơi.
Ngàn Sinh Tử, Năm Ấm Trả Cho Đời.

Ôn Ra Đi, Như Đèn Thiền Lưu Lại.
Phương Trượng Đường, Hương Toả Khắp Trời Tây.
Dáng Hình Hài, Tám Chín Năm Khiêm Hạ.
Trọn Chút Tình, Đức Độ Mãi Đong Đầy.

Xin Gởi Lại, Chút Tình Nơi Cây Khế.
Đời Khiêm Cung, Vẫn Còn Mãi Ngàn Hương.
Phước Duyên Ơi, Một Đời Ôn Mật Hạnh.
Nguyện Giữ Gìn, Phổ Hoá Nguyện Lương Phương.
      Hậu Học Khắc Ghi:
      Chúng con Tỳ Kheo Thích Minh Thế, Nhiều nhân duyên diện kiến Ôn Phước Duyên - Viện Chủ Tăng Già Lam Phước Duyên- Huế, Ôn một đời tu học công hạnh khiêm cung, đức hạnh nghiêm mật trong niềm tin Tam bảo, luôn quay về bến giác Di Đà, niệm niệm thần chú Chuẩn đề, tâm tâm khởi lòng niệm Phật công Đức trường thọ, với chú dạ ánh sáng quang minh, hay Phước duyên vô lượng gieo trồng thiện căn nơi trú xứ cõi Tịnh độ, lưu ảnh giữa Hồng Trần với niềm tin bất hoại.
       Xứ Huế, dòng Hương Giang vẫn chảy êm đềm, nguồn mạch Bạch Yến dòng sông xưa uống lượng sau lưng chùa Phước Duyên khiến cho bao thì nhân mặt khách ngẫm ngơ thổi hồn thi sỹ.
       Nơi trú xứ ấy, có một Bậc Thiền Tăng Thượng Sĩ Huý Thượng Lương Hạ Phương, Tu hành từ thửa thiếu niên đồng ấu lúc 13 tuổi, với chí nguyện tinh tấn, chất phác hiền lương, một đời hầu Phật Tổ, trông coi Tam bảo, tinh tấn trong giới luật nghiêm trì.
       Thế là, bao mùa thu Xuân, hạ tiết đông qua, thời gian nhuốm màu phai hoá, Bậc Thiền Tăng, thanh đạm với chiếc áo nâu sòng, nhiếp hoá đồ chúng, hơn 57 mùa Xuân thu trụ trì tiếp mệnh mà chư Tổ bổ xứ, hơn 8 năm làm Viện Chủ ẩn niệm tịnh tu, hơn 76 năm về nương bóng cửa Thiền tu học, cầu ngài Tôn Sư Thượng Đảnh Hạ Lễ, làm bậc Thiền Sư Thế độ, phủi mái tóc xanh bỏ lại cho đời bao danh vọng hư vô.
        Chúng con may mắn trong cuộc đời này làm kiếp Tăng Học, tu trì trọn đạo, nên duyên lành diện kiến và được nhiều lời sách tấn cầu thị Bậc Thiền Tăng chỉ giáo, chúng con nhớ mãi, mỗi lần về hầu chuyện, Ngài chỉ dạy:
       “ Này Hoà Thượng, Tinh tấn với Đức hạnh chính là Giới học, Thanh tịnh với nội tâm chính là Định Sanh, Thông Minh mà khiêm hạ chính là Tuệ Giác, có vậy chư Tổ đã giữ gìn mãi hai thời nết sống ẩn tu, Hoà Thượng nhớ lời Tui nhé…! Mộc mạc chẳng có chi, chỉ lúc nào cũng như thế mới là người học Phật..!”
       

ht luong phuong-2


Chúng con lắng nghe và bộc bạch rằng:

       “ Kính Bạch Ôn, Bậc Thiền Tăng Chỉ giáo, sao gọi con là Hoà Thượng..? Con chưa đủ tuổi lên đó đâu..? Tổn thọ con chết..?”
       Nghe xong, Bậc Thiền Tăng ngồi cười tư lự vô tư, nhấp chén trà thơm rồi bảo:
      “ Minh Thế Hoà Thượng này, Thiền Tăng ta nhìn thấy duyên và Phước, nên mới có Phước Duyên do Tôn sư Đảnh Lễ đặc hiệu Tôn bản, vì vậy cuộc đời Ta biết và hiểu để thương như những gì Ta thấy, Ngài là Kiếp trước có Tu hành, cũng Hoà Thượng như Ta, giờ Ta Gọi có gì là sai, sinh trước sinh sau thôi mà, nhường lui nhường tới rồi cũng là sanh tử sự đời, ấy vậy thôi Minh Thế Hoà Thượng ạ. Trước sau rồi cũng tới, thôi gọi trước khỏi gọi về sau, khi ấy Thiền Tăng Ta, Lương Phương này về Phật rồi thì sao mà gọi. Thôi Ta gọi trước cho chắc….”
       Thế là, Bậc Thiền Tăng ngồi chúm chím mĩm cười như hơi thở tự do.
       Kế đến, Chúng con chấp Tay tham vấn:
       “ Bạch Ngài, Cho con một pháp hành, để con đây Vân Du hoá độ được nhiều Phước Duyên hơn…?”
       Bậc Thiền Tăng, nhìn khá lâu rồi bảo:
       “ Tách Trà có ngọt có đắng, nên tuỳ thời mà sử dụng. Tu học có chướng có nghiệp, nên tuỳ thời mà sám hối tu thân, nhờ vậy mà đi trong hơi thở, sống trong Chánh niệm mới là ánh sáng Minh Thế giữa nhân gian.
         Minh Thế Hoà Thượng nè, Cây khế giữ hiên phương trượng thất, như công ánh tu hành, Phước hay nghiệp tuỳ vào đó thôi mà, nên Ta và Hoà Thượng hãy nổ lực chớ có giải đãi, mà kém Phước như người anh trong truyện cổ tích cây khế, thì cuộc đời này đi vào ngã tục không có lối thoát thì đời ôm mộng khổ.
        Ta giờ cho Hoà Thượng Mình Thế cái chữ này:
         Chữ ấy chính là Tu Đức, mà có Tu Đức mới thấy Giới phòng hộ tâm, không bị phạm lỗi. Nên giữ gìn cẩn mật chuẩn đề mật ngữ, dụng hành niệm Tịnh độ tu thân…! Đó là Pháp hành Ta Tu suốt đời này…!
        Chữ ấy chính là Sống, mà muốn sống như Tổ thì phải tu, nên càng sống thì từng ngày ta phải khiêm hạ nhân cách, bỏ cái tục giữ đời Cao ngạo khí ác thì mới giúp ta dễ thương ngọt Bùi như trà thơm vị.
        Nghe xong, Chúng con đảnh lễ và dâng cúng tịnh tài phẩm vật.
       Nhân duyên là thế, mùa Xuân năm 2016, chúng con kiến tạo Mộc Bản Kinh Lăng
Nghiêm,  Kinh Pháp Cú, và một số kinh khác, chất liệu quý từ Xương Trâu, nên thành tâm cung niệm phụng thỉnh Bậc Thiền Tăng Chứng minh chú nguyện Tại chỗ, Chúng con cầu thỉnh Bậc Thiền Tăng liền dạy:
        “ Minh Thế Hoà Thượng cầu thỉnh, Nay Ta hoàn toàn hoan hỷ đón nhận, tác chứng Phước Duyên, Minh Thế Hoà Thượng làm được việc này, đây là Phật tác chứng, Tổ tác trì mật niệm, Đại Thiền Tăng tác ứng thì hiển mật tâm thành, trong đời tu sở nguyện.
         Nay, cho Lương Phương Ta, gieo trồng hoa trái, trao cho Minh Thế Hoà Thượng 500 ngàn, lưu cho Ta một chút công đức, để duyên Ta có Phật…!”
        Chúng con đón nhận và làm đúng sở nguyện, sự hoan hỷ vô cùng hoan hỷ, sau khi xong công trình, Chúng con có về trình bạch:
        “ Bạch Bậc Thiền Tăng, Công trình Khắc mộc bản Lăng Nghiêm đã xong, Chúng con bái thỉnh cầu Bậc Thiền Tăng đương vi Tác chứng.”Bậc Thiền Tăng hoàn toàn hoan hỷ nhận lời rồi dạy:
      “ Hôm ấy, nếu Người Ta không khỏe, thì Minh Thế Hoà Thượng hoan hỷ nghe, dù đường xa, Ta không tới, thì Ta sẽ lên Tam bảo Tăng Già Lam Phước Duyên để chú nguyện…! “
         Thế là, buổi lễ diễn ra, Bậc Thiền Tăng khiếm hạ thân thể, tuổi hạc đã cao, đường xa khó bước, nên Bậc Thiền Tăng đã tác chứng mật niệm với Thầy Tri Sự tại mật thất Phương Trượng đường, y hậu trang nghiêm và hương trầm quyện tỏa, Ôi công hạnh Bậc Thiền Tăng trao năng lượng phủ khắp muôn hương, Lương Phương danh hiệu một đời lang rộng.
       Duyên lành nhiều năm, cứ có duyên về Huế, chúng con đều đến vấn an.
       Nay, Bậc Thiền Tăng thu thần thị tịch, nhiếp niệm an trú vào cõi niết bàn vô tung.
       Giờ này, nhân lễ Thất Tuần Thứ Hai, 09-04-Nhâm Dần, chúng con đồng âm vọng bái giác linh đài.
       Nguyện Bậc Thiền Tăng Pháp huý Nguyên Tiến, Tự thượng Lương hạ Phương, Thiền sỹ Đại Thiền Tăng chứng giám.
       Chúng con đồng bái vọng xứ Cố Đô- Tăng Già Lam Phước Duyên.
       Viết tại Phổ Tịnh Thiền Vi- Hà Nội, nhân mùa Khánh Đản Từ Phụ Điện Hạ Thái Tử Tất Đạt Đa. Phật Lịch 2566….!

                 Tk: Thích Minh Thế
                 Bút danh: Hỷ Tâm Hải Triều.
                 Bút hiệu: Tịnh Nhật Vân Quang
                 Ngày 09-05-2022
                 Ngày Âm Lịch: 09-04-Nhâm Dần.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6615)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6914)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 889)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33864)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4717)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4662)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4622)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4587)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4912)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4624)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567