Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Huệ Tánh (1933 - 2022)

19/03/202208:50(Xem: 4364)
Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Huệ Tánh (1933 - 2022)

ht thich hue tanh-2

Đức Trưởng lão
Hòa thượng Thích Huệ Tánh
(1933 - 2022)




I. Thân thế
Hòa thượng họ Lê húy Đình Thông, Pháp danh Nguyên Đạt, Pháp hiệu Thích Huệ Tánh. Ngài sinh ngày 15 tháng 7 năm 1933 trong một gia đình thâm tín Tam bảo tại tổng Văn Vận, phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị (nay là làng Văn Vận, xã Hải Quy, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị). Thân phụ là cụ ông Lê Đình Ích pháp danh Tâm Lợi, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Tá pháp danh Tâm Hoàn, Hòa thượng là con thứ 3 trong gia đình gồm có 4 anh chị em.


II. Thời kỳ xuất gia học đạo

Xuất thân trong gia đình thuần nông kính tin Tam bảo, từ thuở nhỏ Hòa thượng đã sớm bộc lộ niềm tôn kính Đức Phật và có chí nguyện xuất gia học đạo. Do vậy vào năm 10 tuổi, theo chân Thầy Nhật Lệ (Hòa thượng Thích Nhật Lệ) ở tại chùa Quan Thánh (Quảng Trị) để đi học và tập sự nếp sống Thiền môn. Nhân duyên chín muồi, năm 1945 Hòa thượng đến Kinh đô Huế, bái Hòa thượng thượng Trí hạ Thủ làm thầy tế độ tạitổ đình Sắc Tứ Báo Quốc Hàm Long Thiên Thọ tự nối dòng pháp Liễu Quán đời thứ 44 pháp danh Nguyên Đạt, hiệu Huệ Tánh.

Năm 1949, Ngài thọ Sa-di giới tại Đại giới đàn Hộ quốc - chùa Báo Quốc Huế do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đàn đầu, Hòa thượng Thích Giác Nhiên Giới sư. Đến năm 1955, ngài được Bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn chùa Báo Quốc do Hòa thượng Giác Nhiên làm đàn đầu, Hòa thượng Trí Thủ làm Giới sư, chính thức dự vào dòng Thích tử.

Với tư chất thông minh, hiếu học, tinh thông nội điển và ngoại điển, Hòa thượng được các bậc ân sư ưu ái vun bồi cho nhiều sở học. Năm 1956, đậu Bằng Sơ học yếu lược, năm1960, tham học tại Phật học đường Báo Quốc ở cố đô – Huế. Đến năm 1963 đỗ tú tài 1.

Sau khi đỗ bằng Pháp văn năm 1964 và tú tài phần 2 năm 1965, Hòa thượng được Bổn sư gửi vào học tại Phật học viện Trung phần Hải Đức Nha Trang. Tiếp theo đó ngài tốt nghiệp khóa học tại Phật học viện Trung phần. Năm 1966, Hòa thượng vào Quảng Hương Già Lam theo học tại Viện Đại học Vạn Hạnh – Sài Gòn. Năm 1968, tốt nghiệp Đại học Văn khoa. Người rất am tường sử học, đặc biệt là những giai thoại các triều đại Việt Nam, luôn tìm tòi những chứng tích về nguồn cội văn hóa và Phật giáo Việt Nam.


III. Quá trình hành đạo

Sau khi tốt nghiệp các Trường Phật học và thế học, Hòa thượng tham gia giảng dạy Trường Đạt Đức – Sài gòn, Trường Bồ đề Gò Công và Bình Dương. Năm 1969, ngài được Tổng Vụ Văn hóa Giáo dục thuộc Giáo hội PGVNTN cử đảm trách chức Hiệu trưởng Trường Trung Tiểu học Tư thục Bồ Đề Cam Ranh. Năm 1971, Hòa thượng được Tổng vụ Văn hóa Giáo dục thuộc Viện Hóa đạo bổ nhiệm đến Bình Thuận để đảm trách chức vụ Giám học Trường Tư thục Bồ Đề Phan Thiết và giữ chức vụ này cho đến năm 1975, sau khi bàn giao Trường Bồ đề cho Nhà nước làm trường học, Hòa thượng thu xếp hồ sơ, tài liệu của hàng ngàn học sinh về lưu giữ cho đến ngày nay. Trong thời kỳ mới thống nhất đất nước, kinh tế khó khăn, theo lẽ đó Hòa thượng cùng với một số quý thầy, giáo sư Trường Bồ Đề đến vùng Sở Đá – Mương Mán vừa tu tập vừa canh tác trồng hoa màu để tự túc đời sống. Vận dụng khế lý khế cơ, thời gian này Hòa thượng vẫn thực hiện sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh theo những cách riêng phù hợp với xu hướng của thời đại.

Ngày 15-3-1973, theo thỉnh cầu của Hội Hướng đạo Bình Thuận, với đạo hạnh cao thâm sẵn có, Hòa thượng nhận làm cố vấn giáo lý cho Hướng đạo sinh Phật giáo – Thiếu đoàn Trần Quốc Tuấn để dẫn dắt các Phật tử trẻ với chức trách giảng sư.

Ngày 14-4-1974, Hòa thượng giữ chức vụ Đặc ủy Văn hóa kiêm Đặc ủy Giáo dục của Ban Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận.

Ngày 18-4-1975, trước 1 ngày giải phóng Phan Thiết, nhận được thông tư đặc biệt, thể hiện tinh thần vô úy của Đạo Phật, sát cánh cùng đồng bào trong cơn chiến nạn, để hướng dẫn nhau ra khỏi vùng giao tranh, giúp đỡ và an ủi những gia đình có thân nhân bị thương vong, Hòa thượng được sự đồng thuận của Tỉnh trưởng Tỉnh Bình Thuận di chuyển qua vùng chiến trận giúp đỡ đồng bào chiến nạn.

Ngày 10-11-1975, Hòa thượng được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Bình Thuận bổ nhiệm trụ trì chùa Tỉnh Hội do Trưởng lão Hòa thượng Tường Vân ấn ký.

Ngày 2-11-1976, Hòa thượng giữ chức vụ Đặc ủy Thanh niên Ban Đại diện hợp nhất của GHPGVNTN tỉnh Thuận Hải do Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện Trưởng viện Hóa đạo Ban hành Quyết định.

Năm 1979, Hòa thượng về trụ trì chùa Thiền Lâm, Đức Long, Phan Thiết. Sau đó giao lại cho đệ tử Thích Thiện Pháp.

Năm 1982, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Hòa thượng là thành viên chủ chốt trong việc vận động hình thành Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thuận Hải và ngài được đề cử đảm trách chức vụ Trưởng ban Hoằng Pháp từ nhiệm kỳ I (1981) đến nhiệm kỳ VI (2012).

Năm 1987, Hòa thượng được Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thuận Hải bổ nhiệm trụ trì chùa Phật Quang – ngôi cổ tự được xây dựng vào niên hiệu Chính Hòa (1680-1705). Cũng vào năm này, Hòa thượng phát tâm trùng tu ngôi Tam bảo và phát hiện nơi lưu giữ Bộ kinh Pháp hoa bằng gỗ vô cùng quý giá, cũng như tài liệu hoạt động cách mạng rất quan trọng được giấu trong tượng Phật.

Năm 1990, Hòa thượng được cung thỉnh làm tôn chứng Tăng già tại đại giới đàn Hữu Đức, do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thuận Hải tổ chức. Hòa thượng phát nguyện xây vòng thành và cổng tam quan chùa Phật Quang, kiến thiết vườn chùa, trồng hoa sứ thái, dựng vườn Phật tích, tạo cảnh Phật trang nghiêm cho chùa nổi bật giữa lòng Phan Thiết.

Từ năm 1991 đến năm 2005, Hòa thượng được mời vào Ban Chức sự hạ trường Tòng Lâm Vạn Thiện.

Vào năm 1992, khi Trường Cơ bản Phật học (nay là Trường Trung cấp Phật học) Bình Thuận được thành lập, Hòa thượng làm Tổng Giám luật và cũng là giáo thọ giảng dạy bộ môn Luật học Phật giáo cho đến năm 2006. Cũng trong năm này, nhân Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ III, Hòa thượng được tấn phong lên hàng giáo phẩm Thượng tọa.

Năm 1994, Hòa thượng được cung thỉnh làm Đệ Tam tôn chứng Tăng già tại Giới đàn Bảo Tạng, do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bình Thuận tổ chức.

Năm 2003, Hòa thượng phát nguyện đặt viên đá trùng kiến chùa Phật Quang, theo lối kiến trúc cung đình Huế.

Năm 2007, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, ngài được Đại hội tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng.

Năm 2012, Hòa thượng khai sơn chùa Phật Quang II ở xã Măng Tố, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Cũng trong năm này, Hòa thượng được Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Thuận cung thỉnh vào ngôi vị Giáo phẩm chứng minh Ban Trị sự nhiệm kỳ VII (2012-2017) và nhiệm kỳ VIII (2017-2022).

Năm 2015, Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Thuận tổ chức Đại Giới đàn Nguyên Hương tại Tòng Lâm Vạn Thiện, Hòa thượng được cung thỉnh vào ngôi vị Đường đầu truyền giới Sa-di.

Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần VIII, NK. (2017 – 2022) Hòa thượng được suy tôn vào ngôi vị Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

4. Công hạnh tiếp Tăng độ chúng

Sinh thời Hòa thượng thường dạy chúng đệ tử cũng như bản thân ngài thực hiện chí nguyện của người xuất trần thượng sĩ, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh – bằng con đường giáo dục, hoằng pháp lợi sinh, hướng dẫn nếp sống tâm linh Thiền - Tịnh - Mật song hành. Xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo Tăng tài, truyền đăng tục diệm, kế vãng khai lai, sống với bản hoài đức từ hóa độ. Ngài dạy đồ chúng luôn luôn sống lục hòa cộng trụ, thiết lập 13 lời di huấn cho hàng đệ tử thực hành. Mặc dù niên lạp ngày càng cao nhưng ngài luôn luôn chuyên cần tinh tấn, trau dồi kiến thức không ngừng nghỉ, những bài pháp ngữ của Hòa thượng luôn có dấu ấn lịch sử, lòng tự tôn Dân tộc, giữ gìn truyền thống, tinh hoa Văn hóa Việt Phật.

Vì lẽ đó, mặc dù thân thể gầy ốm nhưng với mật hạnh đầu đà, tam thường bất túc, ăn rau, ít ngủ, đi chân trần, gần gũi với thiên nhiên, thương động vật, đặc biệt hơn nữa mặc dù trong thời đại công nghệ phát triển, vật chất đầy đủ nhưng Hòa thượng vẫn không sử dụng đến. Tất cả bằng thân, khẩu và ý giáo Hòa thượng thế phát xuất gia và làm Thầy y chỉ trên 50 vị Tăng Ni, hàng chục ngàn tín đồ. Những người đệ tử xuất gia của Hòa thượng đều được học hành đỗ đạt, trụ trì nhiều tự viện trong và ngoài nước, có nhiều vị tham gia Giáo hội giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh và địa phương tiếp nối con đường của Hòa thượng phục vụ cho Đạo pháp và Dân tộc.

Với tình thương bao la, thân thể bất từ bì quyện, ngài chứng minh, chủ trì tất cả mọi Phật sự từ trong tỉnh đến ngoài tỉnh, từ miền Trung, vào miền Nam, ra miền Bắc.

Để tôn vinh công đức và đạo hạnh của Hòa thượng, Giáo hội các cấp từ Trung ương đến địa phương, chính quyền, Mặt trận đã trao tặng nhiều Bằng tuyên dương công đức và Bằng khen cao quý.

5. Thời kỳ viên tịch

Những năm tháng cuối đời, sau khi đã đem bao tâm lực cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, xiển dương Phật pháp, cũng như việc đào tạo hàng hậu học, nhận thấy sức khỏe của mình ngày càng suy giảm, Hòa thượng sắp xếp mọi Phật sự, dạy đồ chúng phải đoàn kết thương yêu bảo bọc nhau để sống. Tuy sức mòn, lực kiệt nhưng trí tuệ rất minh mẫn sáng suốt, tinh tường mọi việc, ngài dạy đồ chúng về tánh không Bát nhã Tâm kinh, ghi nhớ nằm lòng 7 chữ bất, 8 chữ không, và 21 chữ vô, cốt yếu là chữ “Tâm”. Vào ngày 23 tháng Chạp năm Tân Sửu, dự tri sức khỏe của mình, Hòa thượng cho gọi các đệ tử xuất gia về căn dặn, rồi mặc y hậu lạy Phật, bái Tổ để chuẩn bị cho lộ trình vô tung bất diệt, ngài ứng khẩu:

Huệ Tánh lánh đời chuyện bình thường

Xin đừng ai nhớ chớ ai thương

Hoạn lộ hữu duyên thiên lý ngộ

Vân tùng hữu xạ tự nhiên hương

Xưa nay sanh tử ai mà chẳng

Phật dạy tự lực với tự cường

Vẫy cánh tay từ chào vĩnh biệt

Bà con ở lại chúc an khương


Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 13 tháng 2 năm Nhâm Dần, tức ngày 15-3-2022 Hòa thượng thuận thế vô thường an nhiên thị tịch, trụ thế 89 tuổi, hạ lạp 67 năm.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông tứ thập tứ thế Phật Quang đường thượng trụ trì, khai sơn Phật Quang tự đệ nhị, húy thượng NGUYÊN hạ ĐẠT, hiệu HUỆ TÁNH, Giác linh Hòa thượng thùy từ chứng giám.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/01/2014(Xem: 10104)
Hòa thượng thế danh Lương Thế Ân, sinh vào giờ Tuất, ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất (1670) nhằm vào năm Khang Hy thứ 8 triều nhà Thanh tại làng Thiệu An, huyện Đồng An, phủ Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến, Trung Quốc. Thân phụ Ngài là cụ ông húy Lương thụy Đôn Hậu, thân mẫu tộc Trần thụy Thục Thận. Ngài là người con thứ 2 trong gia đình có 3 anh em, anh trai là Lương Thế Bảo, em trai là Lương Thế Định.
28/01/2014(Xem: 13593)
NAM MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT CÁO PHÓ Gia đình Tang Quyến Chúng Con, Chúng Tôi vô cùng thương tiếc báo tin đến Chư Tôn Đức cùng Quý Thân Bằng Quyến Thuộc, Bạn Hữu gần xa, Chồng, Cha, Ông chúng con, chúng tôi là: Cụ Ông NGUYỄN NGỰ Pháp danh: NGUYÊN BỬU Sinh năm: Quý Dậu (1933) tại Cố Đô Huế Mãn phần lúc 11 giờ tối ngày 27 tháng Chạp năm Quý Tỵ (Nhằm ngày 27-01-2014) tại Sài Gòn, Việt Nam Chương trình Tang Lễ: - Lễ Nhập Liệm lúc 7am ngày 29-01-2014 tại Sàigòn - Lễ Thọ Tang lúc 7pm (29-1-2014) tại Tu Viện Quảng Đức, Úc Châu - Lễ Di Quan từ Sàigòn về Huế: 6am ngày mùng 2 Tết Giáp Ngọ (01-02-2014) - Lễ Động Quan và đưa đi an táng tại Huế lúc 6am ngày mùng 6 Tết Giáp Ngọ (05-02-2014) Chúng con đề đầu đảnh lễ và cúi xin Tôn Đức Tăng Ni cùng Quý Phật tử thân hữu gia tâm niệm Phật để giúp trợ niệm cho Thân Phụ chúng con sớm vãng sanh Tây Phương Cực Lạc Quốc.
21/01/2014(Xem: 16325)
Từ Úc Quốc xa xôi, thay mặt toàn thể Tăng Tín đồ Phật Tử Tu Viện Quảng Đức, một nơi mà chính Trưởng Lão HT Thích Phước Thành đã về chứng minh lễ Khánh Thành năm 2003, Chúng con thành kính ngưỡng vọng về Thiên Phước Tổ Đình, Quy Nhơn, Bình Định, nhất tâm đảnh lễ Giác linh Hòa Thượng, Nguyện cầu Giác linh Hòa Thượng Cao Đăng Phật Quốc, thượng phẩm thượng sanh, hồi nhập ta bà, phân thân hóa độ, lợi lạc quần sanh. Kính nguyện Giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám. Thành kính chia buồn đến HT Thích Nguyên Phước cùng chư Tôn Đức & Môn Đồ Pháp Quyến trước sự mất mát lớn lao này.
31/12/2013(Xem: 20124)
Vở Cải Lương: Chuyện Tình Liên Hoa Hòa Thượng Tác giả: HT Thích Như Điển Chuyển thể cải lương: Soạn giả Dương Kinh Thành Chủ trương và thực hiện: Nghệ sĩ Út Bạch Lan và Nghệ sĩ Tô Châu Thành phần diễn viên gồm những nam nữ nghệ sĩ gạo cội tiếng tăm trong nước như:Nghệ sĩ (NS) Út Bạch Lan, NS Thoại Mỹ, NS Tô Châu, NS Phượng Loan, , NS Điền Trung, NS Quốc Kiệt, NS Hồng Lan, NS Chí Cường, NS Thanh Sử, NS Trần Kim Lợi, NS Hữu Tài, NS Hồng Sáp, NS Hoàng Phúc, NS Hoàng Quân, NS Hoàng Điệp và những vai phụ khác.
15/12/2013(Xem: 9012)
Tổ thường hay nói trong những ngày trước khi viên tịch: “Ta ra đời nhằm ngày Đản Sinh của đức Từ Phụ thì sau ta cũng chọn ngày ấy mà viên tịch”. Ngày mồng 8 năm Quý Mão (1963), Ngài không thấy trang hoàng cờ phướn để đón mừng Phật Đản như mọi khi và khi biết Giáo Hội chủ trương dời ngày lễ Phật Đản vào đúng ngày rằm, Tổ nói: “Rứa thì ta cũng đợi đến ngày rằm...”.
15/12/2013(Xem: 18084)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được tin buồn: Thầy Đặng Ngọc Chúc, pháp danh: Tịnh Minh, sinh năm 1947 tại Phù Cát, Bình Định, vừa mãn phần lúc 9 giờ tối ngày 12/11/ Kỷ Tỵ (14-12-2013), hưởng thọ: 67 tuổi. Lễ Nhập Liệm lúc 2 giờ chiều ngày chủ nhật 15/12/2013 (13-11-AL); Lễ Động Quan lúc 6 giờ sáng ngày thứ tư 18-12-2013 (16-11-Al) tại Sài gòn, Việt Nam. Liên lạc vói tang quyến: [email protected]
06/12/2013(Xem: 10723)
Người làm vườn chậm rãi quét lá. Cuối đông, những cây phong - lá đổi mầu từ xanh tươi sang đỏ, vàng - đang rụng những chiếc cuối. Thời gian không âm thanh, không hình tướng mà lại hiện hữu rõ rệt ở mọi nơi, mọi vật qua những đổi thay, luân chuyển của đất trời. Hoa ấy rực rỡ đầu hè, đã úa tàn cuối thu; mầm ấy trồi xanh tháng lạnh, cành lá đã xum xê khi nắng ấm; quỳnh nẩy nụ ngày xuân, đêm trăng rằm tháng hạ đã chợt ngạt ngào hương sắc…….
06/12/2013(Xem: 13421)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, vị thiền sư ni đầu tiên, người trưởng lão ni tuyệt vời, còn lưu lại bài kệ thị tịch, những lời nói sau cùng, những lời nhắn bảo cuối cùng, những lời nói thật, gây chấn động mãnh liệt nơi nội tâm, thức tỉnh chúng ta trên dòng sinh tử, để lại dấu ấn đậm sâu, thắm đượm mãi trong lòng người đến tận hôm nay và mai sau. Ni Sư Diệu Nhân, và cũng là vị nữ sĩ ban đầu trong nền Văn Học Việt Nam
05/12/2013(Xem: 13300)
Từ Tam Kỳ tôi về lại Đà Nẵng năm 1965 để hầu ôn Phổ Thiên và tiếp tục đi học tại trường trung học Phan Châu Trinh. Ôn cư ngụ tại Chùa Diệu Pháp, nhưng thường xuyên sinh hoạt tại Chùa Phổ Đà. Hai chùa cách nhau năm bảy căn nhà
01/12/2013(Xem: 8092)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh (1) đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật. Ngày xuất gia năm 12 tuổi ở chùa làng. Ðến năm 19 tuổi, được Hòa thượng Giải Tường chùa Phước Sơn thế độ làm đệ tử và học tại đây. Năm 22 tuổi Ngài thọ Cụ Túc giới và giữ chức thư ký trong chùa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]