Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Biên tập viên Tom Fox Nhà xuất bản NCR Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh

27/01/202206:28(Xem: 2353)
Biên tập viên Tom Fox Nhà xuất bản NCR Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh


Tom Fox-su ong lang mai

Biên tập viên Tom Fox Nhà xuất bản NCR
Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh

(NCR Publisher Emeritus Tom Fox remembers Thich Nhat Hanh)

 

Lời người biên tập: Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vị cao tăng thạc đức Phật giáo Việt Nam đã phổ biến chánh niệm ở phương Tây và nhiều bài viết quảng bá về hòa bình, đã giới thiệu đến vô số người về những ý niệm và thực hành Phật giáo, đã an nhiên viên tịch tại vào ngày 22 tháng 1 năm 2022, tại Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế, Việt Nam, trụ thế 97 Xuân.

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh phát biểu trong một cuộc họp báo ở Washington, D.C., ngày 3/6/1966. Ảnh: AP/Washington Star

 

Tháng 5 năm 1968, khi trở về Việt Nam sau hai năm làm công tác tình nguyện dân sự, lần đầu tiên tôi gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuộc họp đó diễn ra tại Pari khi cuộc đàm phán hòa bình Việt Nam đang được tiến hành. Tại Pari lúc bấy giờ Thiền sư Thích Nhất Hạnh với tư cách Trưởng phái đoàn Phật giáo Việt Nam Thống nhất vì Hòa bình.

 

Năm 1969, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dẫn phái đoàn Phật giáo vì Hòa bình tới Hòa đàm Paris, và lập ra Tăng đoàn Phật giáo Thống nhất (Unified Buddhist Church - UBC) ở Pháp. Từ đó hình thành cộng đồng tu tập đầu tiên năm 1975, và sau đó là cơ sở Làng Mai ở miền Nam nước Pháp từ 1982.

 

Chúng tôi đã dành buổi chiều cùng bên nhau thảo luận về chiến tranh và những nỗ lực vì nền hòa bình mong manh. Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là phong thái thanh thoát dịu dàng của Ngài. Ngài mời tôi uống trà và nói với giọng trầm hùng, đôi mắt sắc bén và định lực của Ngài với nụ cười tươi, rất nhỏ nhẹ khi nói.

 

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pari, hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam, được ký kết tại Pari (Pháp). Các thỏa thuận tại Pari, phía Mỹ (gồm Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa) và phía Việt Nam (gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) đã phải trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp kín cấp cao. Trải qua 5 năm từ 1968 đến 1973, các bên đã có khoảng 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn; tại Hoa Kỳ và một số quốc gia đã diễn ra hàng nghìn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ hòa bình Việt Nam.

 

Tháng 5 năm 1993, chuẩn bị một bài báo cho National Catholic Report (NCR), tôi đã dành một tuần để tham gia một khóa tu tại Làng Mai, Pháp quốc do Thiền sư Thích Nhất Hạnh sáng lập tại Pháp quốc, được hình thành vào đầu năm 1982.

 

Tại Làng Mai có ba ngôi chùa dùng làm thiền viện: Chùa Pháp Vân ở Xóm Thượng, Chùa Từ Nghiêm ở Xóm Mới và chùa Cam Lộ ở Xóm Hạ. Chùa Pháp Vân là thiền viện dành cho tăng sĩ. Chùa Từ Nghiêm và chùa Cam Lộ dành cho các ni.

 

Từ một trang trại có nhiều tảng đá từ thế kỷ 19, Làng Mai đã chuyển mục đích sử dụng thành các khu ở tập thể, với nhà bếp, phòng ăn và một số trung tâm thiền: những căn phòng rộng, phòng mở với cửa sổ lắp kính và sàn gỗ được trang trí bằng đệm vải và thảm bện rơm.

 

Văn hóa ẩm thực tại Làng Mai rất nhân văn:

 

"Bụt dạy ta khi ăn nên duy trì chánh niệm, tắt đài phát thanh NST (Non Stop Thinking: suy nghĩ không ngừng) trong đầu để tiếp xúc sâu sắc với thức ăn và tăng thân bao quanh mà đừng suy nghĩ vẩn vơ đến chuyện quá khứ hoặc tương lai, bên này hay bên kia. Ăn như thế nào để có an lạc, thảnh thơi và tình huynh đệ trong suốt bữa ăn.

 

Đại chúng nghe tiếng chuông xin nhiếp tâm thực tập năm quán. (thỉnh một tiếng chuông, nhấp chuông rồi đọc tiếp)

 

1. Thức ăn này là tặng phẩm của đất, trời, của muôn loài và công phu lao tác.

 

2. Xin tập ăn trong chánh niệm và lòng biết ơn để xứng đáng thọ dụng thứ ăn này.

 

3. Khi ăn, xin nhớ nhận diện và chuyển hóa những tâm hành xấu, nhất là tật ăn uống không có chừng mực.

 

4. Xin nguyện ăn như thế nào để giảm thiểu được khổ đau của muôn loài, bảo hộ trái đất và chấm dứt những nguyên nhân gây biến đổi khí hậu bất thường.

 

5. Vì muốn xây dựng tăng thân, nuôi dưỡng tình huynh đệ và thực tập con đường hiểu và thương nên chúng con xin thọ dụng thứ ăn này.

 

Trước khi đưa thức ăn vào miệng ta hãy nhìn thức ăn ấy với con mắt chánh niệm, nhìn để thấy rõ được chân tướng của nó. Ví dụ ta đưa lên một miếng đậu hũ.  Ta thấy được cây đậu nành, được những cơn mưa nắng đi ngang qua hoa đậu, được sự hình thành của miếng đậu hũ trong khuôn vải. Miếng đậu hũ trở thành một vị đại sứ của đất trời, tới với ta để nuôi dưỡng ta.  Lòng ta tràn đầy niềm biết ơn và hoan hỷ. Khi nhai, ta nhai rất ý thức, biết rằng ta đang nhai đậu hũ để tiếp xúc sâu sắc với đậu hũ. Đừng nhai những dự án trong đầu, những buồn giận, những lo lắng; đừng nhai quá khứ và tương lai. Ta nhai khoảng 30 lần cho miếng cơm trở thành chất loãng, rất dễ tiêu và bổ dưỡng. Như thế ta không cần phải lấy nhiều cơm mà chất dinh dưỡng vẫn đầy đủ và thân thể lại càng khỏe mạnh hơn. Lâu lâu ta ngừng lại để tiếp xúc với sự có mặt của tăng thân, để thực sự thấy mình may mắn đang được thực tập chánh pháp với tăng đoàn".

 

Chúng tôi dùng bữa trong im lặng, nhai từng mảnh thức ăn từ đĩa chay của mình 50 lần trước khi nuốt. Chúng tôi thực hiện "thiền hành" từng bước chân an lạc từng bước chậm khoan thai và có chủ ý, có ý thức về hơi thở với mỗi bước chúng tôi thực hiện. Nếu một tiếng chuông, bất kỳ tiếng chuông nào, ngân vang lên từ xa, chúng ta sẽ dừng bất cứ điều gì chúng ta đang làm để tạm dừng lại và lắng tâm thiền định trong một phút.

 

Một buổi chiều, Thiền sư Thích Nhất hạnh mời tôi vào một tịnh thất nhỏ, một công trình kiến trúc bằng gỗ, một gian nhà trên sườn đồi nhìn ra đồng xỏ xanh tươi. Căn phòng đơn sơ ngoại trừ một chiếc bàn ngồi làm việc, phía sau Ngài kiết già tọa như tư thế thiền. Tôi ngồi trên sàn nhà trước mặt Ngài.

 

Ngài tươi cười chào tôi, mời tôi ngồi gần hơn, cạnh Ngài cùng bàn. Trên bàn đặt một phích nước cũ kỹ và các đồ dùng uống trà. Ngài rót trà và nhanh chóng hỏi một câu.

 

"Người Tỵ nạn Việt Nam đang sinh sống tại Hoa Kỳ như thế nào?" Ngài muốn biết.

 

Tôi trả lời rằng người Việt Nam ở Hoa Kỳ nói chung có tiếng là cần cù và hầu hết đều tìm được công ăn việc làm hiệu quả.

 

Nhưng rõ ràng đây không phải là chính xác những gì Ngài đang hỏi. Ý Ngài muốn biết cách họ xử lý như thế nào để rời khỏi quê hương. Ngài muốn biết về những thế hệ trẻ con em của họ. Ngài nói rằng Ngài đã quan sát và nghe nói nhiều trẻ em bị cha mẹ ghẻ lạnh nhạt và thậm chí một số tham gia các nhóm từ thiện xã hội để hỗ trợ lẫn nhau.

 

Ngoài ra, Ngài muốn biết nhà thờ Thiên Chúa giáo đang làm gì để tiếp cận những trẻ em bị bỏ rơi. "Giáo huấn đích thực của Thiên Chúa giáo," Ngài hỏi, đang quan tâm chia sẻ những mảnh đời bất hạnh, những trẻ em bị bỏ rơi!

 

Ngài tiếp tục nói rằng tất cả các vị lãnh đạo giáo hội Thiên Chúa giáo cần phải nỗ lực hơn nữu để tiếp cận những trẻ em bất hạnh. Ngài nói rằng ấn tượng của Ngài là những thứ vật chất, như quần áo hàng hiệu và vui chơi nghệ thuật nhạc, đang được đáp ứng nhu cầu không thỏa mãn bởi các vị giáo thọ tôn giáo.

 

Ngài nói thêm rằng, đạo Phật không đáp ứng nhu cầu thỏa mãn cho giới trẻ ở Mỹ đang cần. Ngài nói, phải xuất phát từ truyền thống phương Tây. Ngài nói, tốt nhất, đạo Phật chỉ có thể giúp khai sáng cho một con đường.

 

Ngài nhấn mạnh rằng các nhà lãnh đạo Giáo hội Thiên Chúa giáo, bao gồm các phóng viên nhà báo Thiên Chúa giáo, cần tìm kiếm truyền thống Thiên Chúa giáo cho "những giáo lý đích thực" có khả năng cho giới trẻ tiếp cận dễ dàng. Ngài nói: "Điều đó phải xác thực để được lắng lòng nghe", Ngài nói thêm rằng, bằng cách xác thực có nghĩa là những lời dạy dựa trên "sự hiểu biết thực sự và tình yêu thương thực sự".

 

Chúng tôi đã nói về Việt Nam và tôi hỏi Ngài có muốn hồi hương Việt Nam không?. Ngài nói rằng, tôi chưa bao giờ bỏ ý định hồi hương, nhưng đã trưởng thành để nhận ra rằng, Ngài vẫn tiếp tục có những người quan tâm đến việc tu học tại Pháp quốc. Ngài nói thêm: "Tôi ở đây; như tôi đang ở quê nhà Việt Nam".

 

Chiều hôm đó, khi Ngài ngồi đó với chén trà trong tay, tôi nhìn vào đôi mắt sâu thẳm của Ngài. Tôi chợt nhớ mình đã hiểu rằng Ngài thực sự thanh thản hồn nhiên, hoàn toàn yên tĩnh và hỏi liệu mình có thể được an nhàn như Ngài hay không - hoặc tự hỏi bản thân liệu đó có phải là điều mà tôi thực sự mơ ước hay không???

 

Tác giả Thomas C. Fox là biên tập viên, nhà xuất bản National Catholic Report (NCR) từ 1980 đến 2015, sau đó, vào năm 2018-19. Các báo cáo của ông về Việt Nam đã xuất hiện trên các số báo sớm nhất trên tờ NCR.

 

Tác giả Thomas C. Fox

Thích Vân Phong biên tập

(Nguồn: The National Catholic Reporter)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13541)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7712)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18618)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5283)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7319)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4389)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17216)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8197)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4676)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5451)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567