Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những câu nói nổi tiếng của thiền sư Thích Nhất Hạnh

24/01/202217:24(Xem: 2746)
Những câu nói nổi tiếng của thiền sư Thích Nhất Hạnh

su ong lang mai
Những câu nói nổi tiếng của thiền sư Thích Nhất Hạnh


Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đúc kết triết lý về cuộc đời, chiến tranh và chánh niệm bằng những câu nói giàu tính suy tưởng và chiêm nghiệm, theo NYTimes.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh được đánh giá là tác giả, nhà thơ và giảng viên xuất sắc, người khởi xướng "Phật giáo dấn thân", áp dụng nguyên tắc của Phật giáo vào những vấn đề xã hội lẫn cuộc sống hàng ngày. Để nhấn mạnh những triết lý của ông, báo Mỹ NY Times ngày 22/1 tổng hợp một số câu nói nổi tiếng của ông từ các cuốn sách, bài phát biểu và các cuộc phỏng vấn.

Về sống chậm

"Không cần phải chạy đuổi theo, tìm kiếm hay đấu tranh. Chỉ cần trở về với mình. Chỉ cần tận hưởng hết những gì đang diễn ra đã là cách thực hành thiền định sâu nhất. Hầu hết mọi người không tin rằng chỉ cần bước đi như thể bạn chẳng có nơi nào để đi đã là đủ rồi", thiền sư kêu gọi.

"Nhiều người trong số chúng ta đã chạy cả đời, hãy tập dừng lại", thiền sư đưa ra lời khuyên. "Hãy cho phép bản thân được an lạc, được nghỉ ngơi".

"Mọi người thường nói về việc nhập niết bàn. Nhưng chúng ta đã ở đó rồi".

Về cái chết

Bàn về cái chết, thiền sư Thích Nhất Hạnh nói rằng "nỗi sợ hãi lớn nhất là khi chết đi, chúng ta sẽ hóa thành hư không. Nhiều người trong chúng ta tin rằng toàn bộ quá trình tồn tại của mình là tuổi thọ bắt đầu từ lúc sinh ra hoặc được thụ thai và kết thúc lúc chúng ta chết đi. Chúng ta tin rằng mình sinh ra từ hư không và khi chết đi lại hóa thành hư không, do đó chúng ta tràn ngập nỗi sợ hãi về sự hủy diệt".

"Đức Phật có cách hiểu rất khác về sự tồn tại của chúng ta, rằng sinh và tử là ý niệm. Chúng không có thật. Việc chúng ta nghĩ rằng chúng có thật tạo ra ảo tưởng mạnh mẽ dẫn đến đau khổ. Đức Phật dạy rằng không có sinh, không có tử, không có sắp tới, không có ra đi, không có giống, không có khác, không có cái tôi vĩnh viễn, không có sự hủy diệt".

"Khi chúng ta hiểu rằng mình không thể bị tiêu diệt, chúng ta được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi. Chúng ta có thể tận hưởng cuộc sống và nhìn nhận nó theo cách mới".

"Cơ thể này không phải của ta, ta không bị giới hạn bởi cơ thể này. Ta là cuộc sống không có ranh giới. Ta chưa bao giờ được sinh ra. Ta chưa bao giờ chết".


Về thiền định

Khi đề cập đến thực hành thiền định, thiền sư Thích Nhất Hạnh khuyên phải thật thư thái, "đừng cố gắng gượng ép". "Hãy để bản thân giống như viên sỏi nằm dưới đáy sông, không phải làm gì cả. Khi bạn đi bộ, bạn thư thái. Khi bạn ngồi, bạn cũng thư thái".

"Thiền có nghĩa là trở về ngôi nhà với chính mình, bạn sẽ biết cách lo liệu những điều đang xảy ra bên trong bạn và những điều xảy ra xung quanh".


Về chiến tranh

Thiền như Thích Nhất Hạnh đã dành nhiều nỗ lực để thúc đẩy hòa bình. Ông khẳng định "máy bay, súng và bom đạn không thể xóa bỏ những nhận thức sai lầm. Chỉ có lời nói bác ái và lắng nghe bằng lòng từ bi mới có thể giúp con người sửa chữa những điều đó".

"Gây ra chiến tranh, khiến hàng triệu người đàn ông và phụ nữ gieo rắc chết chóc ngày đêm trong trái tim họ là gieo hàng triệu hạt giống bạo lực, giận dữ, thất vọng và sợ hãi. Những hạt giống đó rồi sẽ truyền lại cho các thế hệ mai sau".

"Giữ hòa bình và hòa giải là một trong những hành động quan trọng và mang tính nghệ thuật nhất của con người", ông nói.


Về chánh niệm

Năm 2019, tạp chí Time đã gọi thiền sư Thích Nhất Hạnh là người "dạy cho thế giới về chánh niệm". Ông cho rằng với chánh niệm, mọi người có thể "sống trọn bản thân trong hiện tại để chạm đến những điều kỳ diệu của cuộc sống trong khoảnh khắc đó. Nhiều người còn sống nhưng không chạm vào được điều kỳ diệu của cuộc sống".

"Hãy uống ly trà của bạn chậm rãi và tôn kính, như thể nó là trục quay của cả Trái Đất, từ từ, đều đặn, không vội đuổi theo tương lai. Sống đúng khoảnh khắc đang diễn ra. Chỉ khoảnh khắc đó là cuộc sống".


Về khổ đau

Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói "chúng ta có xu hướng chạy trốn khỏi đau khổ và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, nếu bạn chưa đau khổ, bạn sẽ không có cơ hội trải nghiệm hạnh phúc thực sự". Ông khẳng định "không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc, hạnh phúc là con đường".

"Đạo Phật dạy chúng ta đừng cố gắng chạy trốn khỏi đau khổ. Bạn phải đương đầu với đau khổ, bạn phải nhìn sâu vào bản chất của đau khổ để nhận ra nguyên nhân của nó", ông cho biết.

"Mọi người rất khó buông bỏ đau khổ. Họ thích những nỗi đau khổ quen thuộc hơn vì sợ hãi những điều chưa biết".


Về nỗi sợ

Ông cho rằng "hầu hết chúng ta đều phải trải qua cuộc sống đầy những khoảnh khắc tuyệt vời và khó khăn. Nhưng với nhiều người trong chúng ta, dù khi vui mừng nhất, đằng sau đó vẫn có nỗi sợ hãi".

"Không sợ hãi không chỉ là điều khả thi, mà còn là nỗi vui sướng tột cùng. Khi bạn không sợ điều gì cả, bạn tự do".


Về hạnh phúc

"Không có con đường nào dẫn tới hạnh phúc. Hạnh phúc chính là con đường đó", ông nói.

Trong cuộc phỏng vấn với người dẫn chương trình truyền hình Mỹ Oprah Winfrey tại New York, Mỹ hồi tháng 9/2009, ông cho rằng hạnh phúc là chấm dứt đau khổ, là sống khỏe mạnh và vui vẻ. "Ví dụ khi tôi hít vào, tôi nhận thức được đôi mắt của mình, khi thở ra, tôi mỉm cười với đôi mắt và nhận ra chúng vẫn còn tốt", thiền sư nói.

"Thiên đường có rất nhiều hình dạng và màu sắc trên thế giới này. Vì bạn còn đôi mắt tốt, bạn có thể cảm nhận thiên đường đó. Nên khi tôi ý thức được về đôi mắt của mình, tôi đã có một trong những điều kiện để hạnh phúc. Khi tôi chạm vào đó, hạnh phúc cũng xuất hiện".

Nguyễn Tiến (Theo NY Times)
https://vnexpress.net/nhung-cau-noi-noi-tieng-cua-thien-su-thich-nhat-hanh-4419976.html


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13540)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7712)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18616)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5282)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7318)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4389)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17214)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8197)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4676)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5449)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567