Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bảy ngày sư ông Thích Trí Tịnh biết trước mình sẽ vãng sinh

30/12/202116:05(Xem: 6988)
Bảy ngày sư ông Thích Trí Tịnh biết trước mình sẽ vãng sinh


ht-thich-tri-tinh


Sư ông Thích Trí Tịnh

biết trước mình sẽ vãng sanh




Cố Đại lão Hòa thượng thượng Trí hạ Tịnh – Đệ nhất Phó Pháp chủ, nguyên Chủ tịch HĐTS GHPGVN – là bậc Tòng Lâm thạch trụ, mặc dù tinh thông cả Thiền lẫn Giáo, song Hòa thượng một đời chuyên tâm hành trì pháp môn Tịnh độ và luôn luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử ăn chay, giữ giới, niệm Phật…

Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.

Sáng ngày 12/02 âm lịch (04/03/2012), Sư Ông thức dậy sinh hoạt như thường ngày, rửa mặt, dùng tiểu thực. Lúc đó Sư Ông ra hiệu lấy cái bảng rồi ghi lên đó là ngày chủ nhật, 04/03/2012 (nhằm ngày 12/02/âm lịch). Thật ra hơn một tháng nay, Sư Ông không hề ra khỏi phòng thì ngày tháng năm làm sao Sư Ông nhớ. Vậy mà lạ thay, Sư Ông lại ghi đúng chính xác ngày tháng năm cả đến thứ mấy không hề sai.

Ngày 21/02 âm lịch (13/03/2012): Hôm nay là ngày vía đức Phổ Hiền Bồ tát. Vào lúc 8 giờ 30 sáng, Sư Ông lấy áo hậu mặc vào, lên giường, Sư Ông ngồi, tư thế bán già trong dạng thiền định khoảng 10 phút rồi xả ra.

Ngày 22/02 âm lịch (14/03/2012): Lúc 6 giờ sáng, khi chuẩn bị làm thức ăn sáng cho Sư Ông tôi chợt nhìn vào phòng thì thấy Sư Ông đã mặc áo hậu lúc nào mà không ai hay biết, hỏi Thầy Luân, Thầy cũng không biết, ngay cả việc Sư Ông đi vào phòng vệ sinh cũng không ai biết luôn. Vì mọi ngày những việc sinh hoạt, hay việc đi vệ sinh của Sư Ông đều phải có người bên cạnh, để phụ đỡ cho Sư Ông đỡ nhọc. Vậy mà lần này Sư Ông tự làm một mình. Với vẻ mặt đầy hoan hỷ, Sư Ông mỉm cười và chỉ vào mình, ý nói hôm nay Ông mặc áo có đẹp không. Sau khi dùng tiểu thực, Sư Ông ra hiệu tụng kinh Phổ Hiền. Thật ra mấy tháng nay, Sư Ông tịnh khẩu niệm Phật nên không nói chuyện với ai hết, có cần gì thì Sư Ông ghi lên giấy nên ngay việc tụng kinh cũng tụng thầm. Tụng kinh xong Sư Ông đi ra vườn dạo và ngắm cảnh.

Khoảng 15 giờ chiều cùng ngày, Sư Ông ghi lên giấy dòng chữ:“Mới dứt được việc đời”. Không ai hiểu ý Sư Ông nên thưa hỏi, Sư Ông viết tiếp: “Có quyển kinh Mi Đà không?. Lúc lấy kinh đưa cho Sư Ông thì Sư Ông lật đến trang có câu “…văn thuyết A Mi Đà Phật chấp trì danh hiệu…”Sư Ông nói Ông niệm Phật được đến đây và dặn mọi người phải tập niệm Phật. Sư Ông dạy được đến chấp trì danh hiệu thì điều kỵ nhất là nói chuyện. Niệm Phật cứ ba câu lần một hạt. Một thời như vậy là một sâu, rồi sau tăng lần lên năm câu, bảy câu, mười câu. Một thời một xâu rất dễ nhiếp tâm.


ht-thich-tri-tinh-2
Thầy Tri Sự (Hoà Thượng Thích Hoằng Tri) thỉnh cầu Sư Ông trụ thế.



Hôm nay, Sư Ông hỏi là ngày mấy, được biết là ngày 25/02 âm lịch. Mấy bữa nay chân của Sư Ông bị sưng. Sư Ông nói: “Đây là triệu chứng khí nghịch, đàn ông sưng chân, đàn bà sưng mặt, triệu chứng sắp vãng sanh”, Sư Ông lại ghi ba câu:

“Chấp trì danh hiệu

Bất niệm tự niệm

Niệm lực tương tục”

Ba câu trên đồng một nghĩa. Ông chỉ được đến đó thôi , còn nhất tâm bất loạn tam muội khó lắm.

Buổi tối ngày 24, Sư Ông lại ghi trên bảng “ Vấn đề chỉ nội một tuần từ 24/03/âm lịch đến ngày 01/04 âm lịch”

09h sáng ngày 25, Hòa thượng Thiện Pháp đến. Sư Ông cũng lại ghi trên giấy là “Vấn đề giải quyết nội trong bảy ngày”, mọi người đều không hiểu rõ nên cứ gạn hỏi. Sư Ông mới ghi lên hai chữ “Hết Thở”. Lúc đó mọi người đều bàng hoàng lo sợ. Tất cả đều bật khóc, cảm thấy bất an trước những dòng chữ của Sư Ông. Tôi liền qua gấp báo cho Thầy Tri sự (HT. Hoằng Tri) hay, vừa run không thốt được ra lời, tôi gắng lấy lại bình tĩnh và nói từng chữ cho Thầy nghe. Thầy nghe xong nét mặt thay đổi hẳn, nước mắt như muốn trào ra. Thầy vội vàng chạy lên Sư Ông. Lúc đó Sư Ông đang dùng bữa.

Sư Ông lại ghi :”Bảy ngày cũng mau cứ để…” rồi Sư Ông nhìn mọi người với nụ cười hoan hỷ.


Sáng ngày 26, được tin Hòa Thượng ở Văn Phòng II lên thăm, Sư Ông ngồi chơi hồi lâu qua bàn lấy giấy ghi: “Ông không có bệnh hoạn gì hết, nghe êm ái nhẹ nhàng, ăn nhiều, ngủ yên, chỉ có yếu thôi vì tuổi cao (96 tuổi). Bây giờ chỉ lo tương lai cho đời sau, mấy huynh đệ phải lo đời hiện tại và luôn nhớ: Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì theo, nhớ phải ăn chay, không được ăn thịt chúng sanh cố gắng giữ,… nếu ăn thịt chúng sanh thì không còn gì nói nữa”.

Ngày 29, buổi sáng, Sư Ông đi ra ngoài dạo, ngắm cảnh và xem đồng hồ coi lịch ngồi bên khung cửa cạnh cây sala. Lúc đó, quý Thầy ở dưới chùa lên, y hậu chỉnh tề. Đi đầu là HT. Hoằng Thông, thầy Hoằng Tri, thầy Hoằng Chí,…tác bạch thỉnh Sư Ông trụ thế lâu dài, nhưng Sư Ông không nói gì, rồi đứng dậy đi thẳng vào phòng. Cứ như vậy, đại chúng đã bốn lần mời thỉnh mà Sư Ông vẫn yên lặng.

Trưa ngày 30, khi tôi bưng mâm cơm lên, vùa bước vào đến cửa thì Sư Ông chỉ tay hướng dẫn bưng vào phòng. Sư Ông kêu dọn ghế và ra hiệu bảo mọi người ngồi ăn cơm chung. Hôm nay là ngày thứ sáu kể từ ngày Sư Ông viết lên bảng nội dung trong bảy ngày. Thật ra, mấy tháng nay, Sư Ông không nhìn vào mâm cơm thế mà hôm nay lại kêu mọi người ăn chung, tất cả ai cũng nghĩ đây là bữa cơm cuối cùng.Mọi người đều yên lặng và ngậm ngùi. Dùng xong, một lần nữa thầy Tri Sự lại thỉnh cầu Sư Ông trụ thế nhưng cũng không được. Đến 06 giờ chiều, Sư Ông từ giường ngồi dậy thì liền hỏi: “Thầy Tấn (HT. Hoằng Tri) xin gì?”,

Mọi người đáp: “ Thầy xin Sư Ông trụ thế”.Sư Ông mới ghi: “ Bây biểu chúng nó đừng ăn thịt”Cô Biện (Phật tử): “Dạ ở đây ai cũng ăn chay hết”

Sư Ông đưa hai ngón tay lên và dang bàn tay ra hiệu, ý muốn nói là người ăn chay thì ít như hai ngón tay còn người ăn mặn thì đầy dẫy. Mọi người vừa thưa, vừa khóc. Sư Ông kết thúc bằng hàng chữ: “Ông tự biết mình phải làm gì!”

Vào lúc 04 giờ sáng, ngày 01/04 âl. Cũng là ngày cuối cùng trong kì hạn. Sư Ông dậy đi qua bàn ngồi thì liền hỏi “Thiệt hay giả”. Tất cả đều lúng túng không biết trả lời sao, người nói thiệt, người nói giả, còn Sư Ông thì chỉ lắc đầu.

Nhưng việc gì đến rồi cũng sẽ đến. Kỳ hạn ở lại cõi này của Sư Ông đã mãn. Thời gian trôi qua như tên bắn, phút chốc đã hai năm rồi, đến ngày Sư Ông cũng phải đi.

Những lời dạy Sư Ông phát ra đã in sâu vào tâm khảm của con và nó đã trở thành những kỷ niệm đáng nhớ, không gì có thể xóa nhòa được. Những kỷ niệm này sẽ theo con suốt cả cuộc đời và có thể mãi mãi đời sau nữa.

Chính những kỷ niệm này là kim chỉ nam để con làm hành trang trên bước đường tu tâm học Phật.

Con thành tâm cầu mong Tam Bảo gia hộ, tiếp dẫn Giác Linh Tôn Sư cao đăng Phật quốc, sớm trở lại hóa độ chúng sanh đồng lên bờ giác.

youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2012(Xem: 20420)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6245)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8629)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5707)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19252)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9587)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6074)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6860)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 6331)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
21/03/2012(Xem: 6447)
Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lãnh vực phật sự khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]