Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Cố Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn (1932-2021)

16/12/202115:22(Xem: 3462)
Tiểu Sử Cố Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn (1932-2021)

ni truong thich nu nhu tuan

Tiểu Sử
Cố Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn
(1933-2021)
Nguyên Vụ Trưởng Ni Bộ Bắc Tông
GHPGVNTN Âu Châu

Khai Sơn Kiều Đàm Việt Nam
& Viện Chủ Phổ Hiền Ni Tự- Strasbourg - Pháp Quốc




Thân Thế


Ni trưởng thế danh Phạm Thị Tuy, sanh năm Quý Dậu - 1933 tại thôn Lâm Lộc, xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Thân phụ là cụ ông Phạm Đình Dung,cụ là một nhà Nho và cũng là một thầy thuốc đông y, được nối nghiệp từ gia tộc do thân phụ trao truyền.Thân mẫu là cụ bà Lê Thị Nhi. Ni trưởng có sáu chị em; ba trai, ba gái và Ni Trưởng là chị cả trong gia đình.



Ni Trưởng được trưởng thành trong một thân tộc có truyền thống Nho Gia, nhưng được thân phụ cho Ni Trưởng theo học nền văn hoá Tây phương hiện đại và tốt nghiệp Tú Tài II và Ni Trưởng có đi dạy học các trường tiểu học một thời gian, thì những cuộc chiến tranh bùng nổ trên lãnh thổ quê hương. Do đó, sự nghiệp học vấn và giáo dục của Ni Trưởng cũng không được xuyên suốt.




Thời kỳ xuất gia tu học:


Vốn đã có duyên với Tam Bảo tự thuở nào, cho nên trong kiếp sống hiện tại, lúc thiếu thời Ni trưởng đã phát tâm quy y Tam Bảo. Từ đó Ni Trưởng gần gũi Tam Bảo nhiều hơn và nhờ sự sinh hoạt với chư Tôn Đức tại tỉnh Quảng Ngãi. Vốn là người thông minh mẫn tuệ, cho nên Ni Trưởng sớm thấm nhuần giáo pháp xuất thế cao thượng của Đạo Phật. Thế là chí nguyện xuất gia được nuôi dưỡng và đến năm 20 tuổi, duyên lành hội đủ, Ni Trưởng được Hòa thượng thượng Giải hạ Hậu tại chùa Hội Phước, làm bổn sư thế phát xuất gia cho Ni Trưởng và ban pháp danh Thị Trí Tường, pháp tự Diệu Tuấn. Sau khi xuất gia, Ni Trưởng được thầy Bổn Sư hướng dẫn tu học căn bản.



Đến năm 23 tuổi, Ni Trưởng được Hoà Thượng Pháp Chủ thượng Khánh hạ Anh giới thiệu vào miền Nam đến các Ni trường tham học. Và Sắc Tứ Linh Thứu ni viện tại thành phố Mỹ Tho là chốn ban đầu Ni Trưởng dừng chân tu học và sau đó Ni trưởng tham học tại Ni viện Huê Lâm, quận 11, thành phố Sài Gòn, do Sư Trưởng thượng Như hạ Hoa làm viện chủ.



Năm 1959, Ni Trưởng thọ đại giới tại Ni trường Dược Sư, quận Gò Vấp Sài Gòn và Ni Trưởng đã được Sư Trưởng thượng Như hạ Hoa ban pháp hiệu là Như Tuấn theo Ni bộ Bắc Tông lúc bấy giờ. Ngay thời điểm ấy, ni trường Dược Sư khai mở lớp Trung đẳng Phật học, và Ni trưởng Như Tuấn đã theo học. Tại đây Ni Trưởng đã được sự giáo dưỡng của chư tôn đức Hòa thượng; như Ngài Hoà Thượng giám đốc Phật học đường Nam Việt Ấn Quang, thượng Thiện hạ Hoà đệ nhị Phó Tăng Thống GHPGVNTN, Hoà Thượng Viện Trưởng Viện Hoá Đạo thượng Thiện hạ Hoa và cùng nhiều bậc cao tăng, cao ni thạc đức của Phật Giáo Việt Nam giáo dưỡng un đúc, cho nên Ni trưởng được sớm thành tựu học hạnh giới đức.


Thời Kỳ Hành Đạo

Năm 1963, Ni Trưởng cùng Ni trưởng Thanh Minh về chùa Giác Thiên (Vĩnh Long) phụ giảng dạy lớp Sơ cấp Phật học.



Năm 1965, sư bà Giác Nhẫn chỉ đạo hai Ni trưởng về chùa Sắc Tứ Huê Lâm tại quận 8 Sài Gòn, để trùng hưng lại ngôi già lam đã có hơn 100 năm tuổi, do thiếu sự trông nom nên dần hoang phế. Về đây, Ni trưởng hết lòng phụng sự, cho nên từ ngôi già lam hoang phế từ lâu, được trùng tu trang nghiêm trở lại.

Năm 1968, các Phật tử trong gia tộc phát tâm hiến cúng đất ở xã Tân Quy, huyện Nhà Bè. Ni trưởng đã khai sơn kiến tạo xây dựng ngôi Tam Bảo và đặt tên chùa là Kiều Đàm. Cũng chính nơi đây Ni Trưởng Như Tuấn đã cùng chư huynh đệ là Ni Trưởng Thanh Minh, Ni Trưởng Tâm Lượng hoằng dương Phật pháp theo tinh thần tùy duyên bất biến. Đã đem lại niềm tin Tam Bảo cho bà con Phật tử quanh vùng. Từ cơ sở Kiều Đàm thô sơ với mái tole vách ván lúc ban đầu, dần trở thành ngôi phạm vũ trang nghiêm kiên cố. Và đạo tràng Kiều Đàm kể từ đó khởi sắc từ tâm thể đến vật thể.

Thời Kỳ Hành Đạo tại Hải Ngoại

Theo quy luật vô thường, thế gian luôn dời đổi, cảnh vật không ngừng biến. Vào mùa xuân năm 1975 thời thế đổi thay. Đồng bào Việt Nam từng đoàn từng đoàn rời xa quê hương, đến xứ người tìm không khí tự do. Và tháng tư năm 1979, Ni trưởng Như Tuấn, xuống thuyền vượt hải phận Việt Nam đến đảo tị nạn Pulau Bidong của nước Malaysia. Đến tháng 11 năm 1979 Ni Trưởng được định cư tại nước Thuỵ Sĩ.



Với chí nguyện trên cầu Phật Trí, dưới nguyện lợi lạc quần sanh, cho nên mặc dù xứ lạ quê người, ngôn ngữ bất đồng, văn hoá truyền thống đối lập. Nhưng Ni Trưởng quyết chí gieo trồng hạt sen trên xứ tuyết, bằng cách là tạo dựng Ngôi Phật Đường Linh Phong, để gieo niềm tin chánh tín Tam Bảo, cho đồng hương đồng bào Phật tử Việt Nam, nơi xứ lạ quê người, có điểm tựa tâm linh, vơi đi phần nào sự lạnh lẽo trống vắng tha hương. Và ngôi Phật Đường ấy chính là tiền thân của ngôi chùa Linh Phong hiện nay tại Thuỵ Sĩ.



Vào năm 1983 có hai vị Phật tử Ưu bà di tại xứ Pháp, phát tâm xuất gia, nhưng vì tại Pháp chưa có chùa Ni, cho nên hai vị nữ cư sĩ đã thành tâm cầu thỉnh Ni Trưởng từ Thuỵ Sĩ sang Pháp để lập chùa Ni và độ cho hai vị được xuất gia. Vì sự tha thiết cầu tu học hai cư sĩ nữ, Ni Trưởng liền hoan hỷ nhận lời. Và Ni Trưởng cùng hai Ưu bà di, bỏ tiền ra mua một ngôi biệt thự toạ lạc trên một vị trí tuyệt đẹp với núi biển hữu tình của thành phố Marseille thuộc miền nam nước Pháp. Và ngôi biệt thự được cải gia vi tự, thành ngôi chùa Phổ Đà. Về sau hai vị nữ cư sĩ được Hoà Thượng thượng Huyền hạ Vi từ bi tế độ cho xuất gia tu học. Đó chính là hai vị Ni Sư Trí Minh và Trí Hải và hai Ni Sư cũng đã viên tịch trước Ni Trưởng.



Đến năm 1998 Hội Phật Tử Việt Nam tại Strasbourg, đã thành tâm cung thỉnh Ni Trưởng về lãnh đạo tinh thần cho Hội và hướng dẫn bà con Phật tử tu học. Và Ni Trưởng cùng quý Phật tử đã tạo mãi được một cơ sở vốn là văn phòng của một khu tiểu công nghiệp. Nhưng sự sinh hoạt cũng không được thuận lợi vì luật pháp không cho phép xây dựng lên cao hơn, hoặc không được mở rộng ra thêm v.v…. chính vì nghịch cảnh bất tiện ấy. Do đó, Ni Trưởng và các đệ tử quyết định tìm một nơi xây dựng ngôi Tam Bảo trang nghiêm, Phật sự như nguyện. Tâm thành của Ni trưởng đã được sự nhiệt tình giúp đở từ cơ quan chính quyền địa phương giới thiệu nhiều nơi khác nhau để làm chùa. Cuối cùng Ni trưởng và các đệ tử quyết định chọn mảnh đất hiện tại. Thế là chùa Phổ Hiền chính thức khởi công xây dựng vào năm 2015 và Khánh Thành vào mùa Phật Đản PL 2561 - 2017. Nhưng công cuộc kiến tạo xây dựng chùa Phổ Hiền này, Ni Trưởng đã giao phó lại tất cả cho đệ tử xuất gia, là Ni Sư Thích Nữ Như Quang hiện đang trụ trì.



Khi Ni Trưởng sang Pháp quốc hành đạo, Ni Trưởng đã làm việc theo chư Tôn Đức chức sắc cao cấp trong Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất từ trong nước đến hải ngoại. Trong đó có Hoà Thượng thượng Huyền hạ Vi - nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp. Hoà Thượng thượng Thiền hạ Định - nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kiến Thiết. Hoà Thượng thượng Minh hạ Tâm - nguyên là đại diện cho các Chi Bộ PGVN Hải Ngoại . Khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được thành lập từ năm 1991 , thì Ni Trưởng được Giáo Hội giao trọng trách là Vụ Trưởng Ni Vụ Bắc Tông GHPGVNTNÂC đến năm 2005.



Ni Trưởng được cung thỉnh làm Đàn Đầu - Chứng Minh Truyền Giới Sư cho Ni Giới tại những Giới Đàn như sau:



- Giới Đàn tại Làng Mai - Pháp quốc.


- Giới Đàn Pháp Chuyên tại chùa Viên Giác Hannover-Đức quốc từ 6/2008.


- Giới Đàn Quán Thông tại chùa Viên Giác Hannover-Đức quốc 6/2019



Suốt một đời sự nghiệp hành hoạt Phật Pháp, Ni Trưởng đã theo hạnh nguyện từ bi cứu khổ chúng sanh của chư Phật Bồ Tát. Đặc biệt là hạnh nguyện Tài Thí, mặc dù Ni Trưởng có những thời điểm khó khăn, nhưng thấy hoặc nghe nơi nào, có những thân phận gia cảnh khó khăn về phương diện vật chất, thì Ni Trưởng không từ nan và tìm mọi phương cách để giúp đỡ cho những hoàn cảnh khổ đau ấy.



Năm 2005 Ni Trưởng truyền lại ngôi vị Trụ Trì cho Ni Sư Thích Nữ Như Quang kế vị, thì kể từ lúc đó, Ni Trưởng chuyên tâm tu tập pháp môn Tịnh Độ và lấy công hạnh bố thí trợ duyên cho pháp tu cầu sanh Tịnh Độ. Vì vậy, nơi nào có sự khổ xuất hiện, thì nơi ấy sẽ có Ni Trưởng xuất hiện, đem lại sự ấm áp và niềm vui cho mọi người.



Thời Kỳ Cuối Đời

Do niên cao lạp trưởng, sức khoẻ mòn mõi theo thời gian với 89 năm cuộc đời. Tuy là vậy, nhưng nơi nào Giáo Hội tổ chức hội họp và những dịp Lễ quan trọng, thì Ni Trưởng đều có mặt. Ni Trưởng luôn giữ thái độ nói năng như chánh pháp và im lặng như chánh pháp. Do vậy, về những năm tháng gần đây, Ni Trưởng lại càng ít nói hơn, thay vào đó là miệng niệm tâm nghĩ về danh hiệu Phật A Di Đà. Ni Trưởng đã nhịn ăn khoảng một tuần lễ, dường như đó là tín hiệu cho sự ra đi của Ni Trưởng. Cũng đã nói lên công viên quả mãn, trong kiếp sống Ta-bà của Ni Trưởng.



Thế là khuya mùa đông chủ nhật và sáng thứ hai, khoảng 2 giờ sáng, ngày 13 tháng 12 năm 2021 nhằm mồng 10 tháng 11 năm Tân Sửu, thì Ni Trưởng đã thâu thần thị tịch ngay trong giấc ngủ cuối đời.



Phụng Vị Tự Lâm Tế Chánh Tông, Chúc Thánh Pháp Phái Đệ Cửu Thế, Kiều Đàm Tự Khai Sơn, Hải Ngoại Pháp Quốc Phổ Hiền Viện Chủ, huý Thị Trí Tường hiệu Diệu Tuấn - Phạm Thị Ni Trưởng Giác Linh





le tra ty-suba nhu tuan (7)le tra ty-suba nhu tuan (20)

Hình ảnh Lễ Di Quan Trà Tỳ Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn (1932-2021)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7177)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4211)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4838)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5606)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6203)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3831)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5265)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5335)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12977)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11551)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567