Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thư Chúc Mừng HT Thích Như Điển (của Hòa Thượng Seelawansa)

21/11/202109:04(Xem: 5173)
Thư Chúc Mừng HT Thích Như Điển (của Hòa Thượng Seelawansa)
Bhante Seelawansa Thero
pháp đăng SÁNG rạng [*]  
Chúc mừng Hòa Thượng Như Điển nhận
Huân Chương Quốc Gia Hạng Nhất của CHLB Đức
 

 

Lời người dịch:

Hòa Thượng Seelawansa sinh năm 1953 tại Tích Lan, xuất gia từ năm 11 tuổi. Ngài theo học ngành Triết Học tại các đại học ở Tích Lan và Áo quốc, có học vị Tiến sĩ. Hiện nay, Ngài đang sống tại thủ đô Wien của Áo quốc, là Giáo Sư Thỉnh Giảng (Lehrbeauftragter) của Đại học Wien và Học viện Global Academy ở Liechtenstein. Ngoài ra, Ngài còn là Giám đốc của trường Theravada-Schule và Trung tâm Dhammazentrums Nyanaponika ở Wien.

Tuy là một Lời Chúc Mừng nhưng văn cảnh như một lời tâm sự của hai hành giả trên đường hoằng hóa, của hai người bạn đạo cùng một chí hướng độ sanh. Văn phong có khi như thơ. Ý nghĩa nội dung nghe như những lời pháp nhũ cho hàng hậu học. Chúng tôi cố dịch sát theo nguyên văn nhưng có khi phải mượn những đoạn kinh đã được dịch và vài danh từ chuyên môn Phật giáo mới có thể diễn tả hết được.


Nguyên văn: Đức ngữ - Người dịch: Nguyên Đạo

 

---

 

ht nhu dien

Hòa Thượng Thích Như Điển

bhante seelawansaBhante Seelawansa Thero

 

 

 

 Wien, ngày 13 tháng 11 năm 2021


Kính gởi Hòa Thượng Thích Như Điển.

 

“Pujaca pujaniyanam, Etam mangala muttamam”
(Mangala Sutta)

Đảnh lễ người đáng lễ; Là điềm lành tối thượng.

(Kinh Điềm Lành - Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch Việt)

Tôn kính bậc đáng kính; Là phước đức lớn nhất.

(Kinh Phước Đức - Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch Việt)

 

Có những con người, trong họ tiềm tàng một giá trị cao quý đích thực mà người đời ít khi nhận biết được, hoặc có chăng thì cũng cần rất lâu. Đó là những người luôn dõi mắt nhìn thế gian bằng cả tình thương yêu và lòng nhân hậu. Họ nhận ra những điều ấy như chính thật tướng của nó. Họ là những người sống an lạc và chuyển hoá thế giới chung quanh trở thành hạnh phúc an lạc. Ngay cả đến khi bước chân về thế giới bên kia, lòng họ cũng sẽ an vui khi nghĩ lại những thiện sự mình làm trong tiền kiếp.

 

Idha modati, pecca modati kata-punno ubhayattha modati,
So modati so pamodati disva kamma-visuddhim attano. 

(Dhammapada 16 – Pháp Cú 16)

Nay vui, đời sau vui; Làm phước, hai đời vui.

Người ấy vui, an vui; Thấy nghiệp tịnh mình làm.

(Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch Việt)

 

Đời này được vui mừng; Đời sau lại vui mừng;

Đời nào kẻ làm thiện; Chẳng vui mừng, hân hoan;

Những việc thiện mình làm!

(Thi sĩ Trụ Vũ dịch thơ Việt)

 

Thưa Thầy.

Chúng ta gặp nhau dễ chừng đã mấy mươi năm rồi. Ngay từ cuộc hội ngộ đầu tiên, tôi đã cảm nhận rằng, chúng ta từng gặp nhau nhiều lần và giờ đây lại gặp nhau lần nữa. Chúng ta đã cùng nhau đi giáp vòng thế giới. Chúng ta đã đi thuyết giảng Giáo lý Phật Đà, giảng về những điều chúng ta đã học và hiểu được. Chúng ta đã nói về Giá trị Thực tiễn của Đạo Phật và Phương cách Ứng dụng giáo lý ấy trong đời sống thường ngày.

Thầy thường nhắc nhở, rằng hỷ xả và từ bi, rằng tình thương và trí tuệ là những điều tối quan trọng. Với Thầy, đây không phải chỉ là những lời nói suông! Thầy đã áp dụng những giá trị cao quý từ những bài Pháp của Thầy ngay với chính bản thân mình, ứng dụng nó vào chính đời sống thực tế.

Một trong những thành tựu lớn nhất của Thầy, là đã gầy dựng được một tầng lớp kế thừa có kiến thức cao. Thầy đã hỗ trợ, khuyên dạy cho hàng ngàn Tăng Ni sinh đang sinh sống và làm việc trên khắp thế giới. Học trò của Thầy là những vị được tốt nghiệp từ các trường đại học danh tiếng và hiện là những người đi đầu trong xã hội.

Tôi chưa hề biết một vị Tăng sĩ Phật Giáo nào có thể so sánh được với Thầy trong địa hạt này. Thầy chưa bao giờ cảm thấy mỏi mệt và cứ kiên trì tiếp tục làm những việc của mình mà không hề đòi hỏi, thậm chí không hề mong đợi, bất kỳ lời ngợi khen hay bất cứ sự công nhận nào.

Cá nhân tôi đặc biệt biết ơn chính phủ Đức đã công nhận và tôn vinh công lao to lớn của một con người tinh tế như vậy. Chính phủ Liên Bang Đức đã nhận ra và đánh giá đúng người đúng lúc. Xin Thầy hoan hỷ nhận nơi đây Lời Chúc Mừng nồng nhiệt nhất của tôi nhân dịp Thầy nhận được giải thưởng cao quý này từ chính phủ Liên Bang Đức.

Hòa Thượng Như Điển kính mến!

Thầy là một hành giả trí tuệ và tinh tấn. Nhưng đó không phải là điều khiến Thầy trở nên nổi bật. Tôi hiếm khi gặp được ai có đầy đủ đức tính cao quý: từ, bi, hỷ, xả như Thầy. Vì vậy, Thầy xứng đáng là pháp đăng sáng rạng, là ngọn đuốc cho pháp đồ tại thế gian.

Xin cầu chúc Thầy pháp thể khinh an, thọ mạng dài lâu!

Trân trọng.

 

Bhante Seelawansa  Wijayarajapura

Dhamma Zentrum Nyanaponika

Penzinger Strasse 16/8

1140 Wien, Österreich


 

 

 

Một vài hình ảnh nhị vị Hòa Thượng Việt Nam & Tích Lan:

Su Seelanwansa (1)
Su Seelanwansa (2)
Thượng Tọa Như Điển và Đại Đức Seelawansa đến thăm một ngôi làng quê ở Tích Lan (1994)

Su Seelanwansa (3)
Hòa Thượng Seelawansa chúc mừng Hòa Thượng Như Điển
nhận Giải thưởng Danh dự của Hội Đồng Tăng-già và Chính phủ Tích Lan (2011)

Su Seelanwansa (4)
Hòa Thượng Minh Tâm, Hòa Thượng Như Điển, Hòa Thượng Seelawansa viếng thăm một Trại Cô Nhi tại Tích Lan (2011)

 

Nguồn hình: Thích Như Điển (2020). Tích Lan - Đạo Tình Muôn Thuở. Viên Giác Tùng Thư (Amazon)
NGUYÊN VĂN ĐỨC NGỮ

 

 

 

Wien, 13.11.21

 

Ehrwürdiger Nhu Dien!

“Pujaca pujaniyanam, etam mangala muttamam”

Gute Menschen wertzuschätzen, das bringt Glück” (Mangala sutta)

 

Menschen, die in der Welt wirklich wertvoll sind, werden nur selten und sehr langsam erkannt. Diejenigen, die die Welt mit Liebe und Güte betrachten und sie so erkennen wie sie wirklich ist, leben glücklich, und sie machen auch die Welt glücklich. Außerdem werden sie sich im Jenseits freuen, wenn sie an ihre richtigen und guten Taten in früheren Leben zurückdenken.

 

Idha modati, pecca modati kata-punno ubhayattha modati,

So modati so pamodati disva kamma-visuddhim attano (Dhammapada 16)

“Es freut sich hier und freut sich drüben auch,

Es freut, wer Gutes tut, sich beiderorts.

Es freuet sich und fühlt sich hochbeglückt,

Wenn er die eigne laut’re Tat bedenkt.”

 

Ehrwürdiger, wir haben einander schon vor einigen Jahrzehnten kennengelernt. Vom ersten Tag an fühlte ich, dass wir einander früher auf dieser langen Reise schon oft getroffen hatten und uns nun ein weiteres Mal begegnet waren. Wir sind gemeinsam um die Welt gereist. Gemeinsam haben wir den Menschen den Buddhismus erklärt, soweit wir ihn verstanden haben. Wir haben über den praktischen Wert des Buddhismus gesprochen und darüber, wie man ihn im täglichen Leben anwenden kann.

Sie haben oft betont, dass Freundlichkeit und Güte, dass Liebe und Weisheit dabei sehr wichtig sind. Bei Ihnen waren das keine leeren Worte. Sie haben die Werte, von denen Sie gesprochen haben, immer selbst gelebt und in die Tat umgesetzt.

Eine Ihrer größten Leistungen ist es, eine gebildete Studentenschaft geschaffen zu haben. Tausende aus Vietnam stammende Studenten, die überall der Welt leben und arbeiten, haben Sie mit Tat und Rat unterstützt. Ihre Studenten haben an den besten Universitäten der Welt Abschlüsse erworben und stehen heute an der Spitze der Gesellschaft.

Mir ist kein buddhistischer Mönch bekannt, der auf diesem Gebiet vergleichbares geleistet hätte. Sie sind niemals müde geworden und haben unbeirrt weitergemacht, ohne irgendein Lob oder irgendwelche Anerkennungen einzufordern oder auch nur zu erwarten.

Ich bin der deutschen Regierung besonders dankbar, dass sie die großartige Arbeit eines so feinen Menschen anerkannt und geehrt hat. Sie hat zur richtigen Zeit die richtige Person gefunden und gewürdigt. Bitte nehmen Sie meine herzlichen Glückwünsche zur Verleihung dieser Auszeichnung durch die deutsche Regierung entgegen.

Ehrwürdiger Nhu Dien,

Sie sind ein intelligenter und disziplinierter Mönch. Aber das ist nicht das besondere an Ihnen. Nur selten sind mir Menschen begegnet, die so von Liebe und Mitgefühl, Mitfreude und Gelassenheit erfüllt waren wie Sie es sind. Deswegen sind Sie ein großes Licht für das Buddha Sasana und für die buddhistische Welt! Ich wünsche Ihnen ein langes, gesundes und glückliches Leben!

Mit herzlichen Grüßen,

 

Bhante Seelawansa  Wijayarajapura

Dhamma Zentrum Nyanaponika

Penzinger Strasse 16/8

1140 Wien, Österreich



[*] Nhan đề này do chúng tôi tự đặt, lấy ý từ lời chúc của Bhante (NĐ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8082)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4833)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37184)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6136)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6106)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5741)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5640)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5919)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5455)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8763)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]