Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành Kính Tưởng Niệm Sư Bà Diệu Tâm

11/11/202119:32(Xem: 3827)
Thành Kính Tưởng Niệm Sư Bà Diệu Tâm

su ba dieu tam 3

Thành Kính Tưởng Niệm
Sư Bà Diệu Tâm
Bài viết và diễn đọc: Cư sĩ Diệu Danh

 

 

Kính bạch Giác Linh Sư Bà,

Cầm tờ báo Viên Giác, số đặc biệt tưởng niệm Sư Bà trong tay, con xếp lại ôm trên ngực mình, nhìn lên bàn thờ Đức Quan Thế Âm sự xúc cảm dâng trào trong con, con cảm nghe sự êm ái và ấm áp về tất cả những hình ảnh Sư Bà từ lúc xuất gia cho đến khi viên tịch, như cuốn phim cuộc đời tu tập và hành đạo của Sư Bà được Chư Tôn Thiền Đức và quý Phật tử gần xa ghi lại, làm con thấy gần gũi và kính tin Tam Bảo mãnh liệt hơn, hình ảnh chư Tôn Đức Tăng Ni với màu y vàng giải thoát đi khất thực hay thiền hành trong rừng cây hay bên cạnh dòng sông, con không hiểu từ bao giờ đã in sâu vào tâm trí con mà thể hiện qua những giác mơ cứ được lập đi lập lại, thánh thiện, hiền hòa và đẹp làm sao!

Hôm nay là thứ bảy, ngày 6/11/2021, như vậy là chúng con đã xa Sư Bà 22 tuần rồi! thời gian cứ lặng lẽ trôi, con tưởng chừng như giấc chiêm bao. Con còn nhớ vào khoảng tháng 9 năm 1994 con lên chùa Viên Giác để cúng thất tuần cho Ba con, con ôm 2 cháu nhỏ với vành khăn tang, con khóc sướt mướt, Sư Bà đã đến bên cạnh con hỏi han, vỗ về an ủi, Sư Bà nhắc con lấy cơm cho các con con ăn, và ráng niệm Phật cho Ba con. Trước khi ra về, Sư Bà còn hỏi thăm gia cảnh con bên Việt Nam, hỏi thăm Mẹ con nữa, cuối cùng Sư Bà xin địa chỉ, tên ngày mất của Ba Mẹ con để Sư Bà về làm lễ, hai tuần sau đó Sư Bà gửi 2 bài vị của Ba Mẹ con Sư Bà để trên Linh đường chùa Bảo Quang, Sư Bà còn nhắc: “lần tới Sư gặp con không muốn thấy con khóc nữa“, con cảm động vô cùng.

Rồi 4 năm sau, Sư Bà gặp con ở Jügesheim, trong dịp Sư Bà đến để làm lễ chung thất cho một bác người Hoa, Sư Bà lại gặp con ở đó, cười hiền hòa, Sư Bà hỏi “bớt khóc chưa con?“, rồi Sư Bà đưa chuông mõ cho con, con lắc đầu “Bạcg Sư Bà con không biết nghi lễ, Sư Bà đưa chị Hồng Diệu giúp, con chỉ biết tụng hộ niệm thôi“. Sư Bà nói: “mai mốt nếu có duyên Sư tìm mua đất để lập  chùa gần đây, con tới Sư dạy cho chuông mõ“.

Sau lần đó đến nay, con vô duyên không bao giờ gặp lại Sư Bà nữa, năm 2014 nhân dịp Vu Lan con ghé Hamburg lên chùa Bảo Quang, những mong được thăm viếng Sư Bà, nhưng lúc ấy chùa đông quá, con vô duyên không được gặp Sư Bà để nói lời tri ân, con ra về mà lòng nặng trĩu! biết bao giờ con mới có dịp đến Hamburg. Con tự trách mình tệ quá! nhưng rồi bao nhiêu ràng buộc, các con con nhỏ, con đi làm không có thời gian cho chính mình, nào gia đình nhỏ của con, nào các anh chị con bên VN, người nào cũng nghèo nên con phải hỗ trợ.

 

Ngày Sư Bà viên tịch, con bị gãy bàn chân, đi đứng khó khăn, 49 ngày Sư con hứa con lên đảnh lễ Giác Linh Sư Bà nhưng rồi chướng duyên con ho sù sụ, ngay  thời điểm dịch bệnh nên con đành ở nhà, vì không muốn làm người khác phải lo lắng, sợ covid-19. Rồi khi con đọc thư tòa soạn Báo Viên Giác số 243,  Hòa Thượng Phương Trượng và cũng là Chủ biên, kêu gọi mọi người viết bài để tưởng niệm Sư Bà, con hứa với lòng con sẽ viết, thế mà thời gian lại trôi qua, đến khi nhận được báo Viên Giác số 245, con mới hay là con lại thêm một lần trễ hẹn với Sư Bà, lòng áy náy mãi, nên con đã xin phép Hòa Thượng Phương Trượng cho con đọc tất cả những bài tưởng niệm trong báo dể kính dâng lên Giác Linh Sư Bà, Ngài Phương Trượng đã từ bi hoan hỉ cho con đọc, và Thượng Tọa Nguyên Tạng, chủ biên Trang Nhà Quảng Đức, cũng tạo cơ hội và khuyến tấn con, con cảm động vô cùng, như một lời để con tạ ân cùng tạ lỗi với Sư Bà, cũng chính nhờ vậy mà con biết được hành trạng của Sư biết bao gia đình khổ đau, trẻ thơ mất cha Bà điều hành cô nhi viện, ký nhi viện, v…v… để xoa dịu, nuôi nấng  trẻ em mồ côi Cha, Mẹ, chiến tranh phủ dầy trên Quê Hương đến đâu cũng thấy vành tang cho người lính, máu và nước mắt ngập tràn. Sư Bà đã dâng đời mình cho Đạo pháp để giúp Đời, giúp bao cảnh đời cô quạnh. 

Thời gian cứ lặng lẽ trôi, Sư Bà già yếu đi lúc nào con cũng không biết….Rồi nghe theo lời thỉnh cầu của đệ tử, Sư Bà vẫn chịu với căn bệnh ngặt nghèo để tới mùa hè ấm áp, Sư Bà mới xả báo thân để cho thuận với việc đi lại của Chư Tôn Đức, con nghe mà xúc động và kính phục làm sao!

 

Sư Bà kính yêu, trời Đức quốc đã thật sự vào thu, khí trời lành lạnh, nhưng vẫn còn những tia nắng ấm, chiều qua con đi vào cánh rừng gần nhà, con bước đi những bước thật chậm trên những chiếc lá vàng bay rơi đầy cả khu rừng, cảnh thật đẹp, tĩnh lặng xen kẽ giữa hàng cây xanh, vàng, đỏ, lòng con tưởng nhớ đến Sư Bà, con vừa đi vừa niệm Phật, hình ảnh Đức Phật nói với ngài Anuradha trong lời kinh mà con thường đọc:

“Này Anuradha, con nghĩ sao về cái gì không có sắc, thọ, hành và thưc có phải là Như Lai không?

Thưa không, bạch Thế Tôn

Này Anuradha, vì không tìm thấy Như Lai trong đời sống này, con có thể nói như thế này không: Đấng cao quý và tối thượng đã nhấn mạnh và giải thích bốn mệnh đề sau đây:

Một Như Lai hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai không hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai hiện hữu và không hiện hữu sau khi nhập diệt

Một Như Lai chẳng có mà cũng chẳng không có sau khi nhập diệt?

-Thưa không, Bạch Thế Tôn.

Lành thay! Anuradha. Trước đây và bây giờ cũng vậy, ta chỉ giải thích và nhấn mạnh chân lý của khổ đau và sự chấm dứt khổ đau.

Con thấy Sư Bà hiện ra trong con, trong tất cả, Pháp thân Sư Bà là bài kinh vi diệu của lòng từ mẫn mà con phải kính thành đảnh lễ 

Một cơn gió hơi lạnh vừa thoảng qua, nhìn lên bầu trời, những chiếc lá vàng, đỏ trên những cành cây từ từ rơi xuống, uốn éo theo chiều gió vi vu như những điệu múa thật đẹp, như những hoa trời tung bay khắp mười phương, những hạt giống thương yêu của lòng vị tha Sư Bà đã gieo trồng cho hàng Phật tử chúng con sẽ lớn mãi không bao giờ mất, Sư Bà còn mãi, còn mãi trong chúng con trên mảnh đất này, cái mãnh đất mà Sư Bà thường nói “Làm việc Đạo khó khăn giống như người đi gieo hạt giống Bồ Đề trên nền xi măng“ vậy mà đã nẩy mầm mà con nghĩ sẽ lớn mãi.

Sư Bà ơi! con nghe Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác nói Sư Bà thích bài thơ
“Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng“ của Thi Sĩ Trần Trung Đạo, người đồng hương của Sư Bà, nên con xin chép vào đây cho mọi người cùng đọc, con đọc cho Sư Bà nghe : 


Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng
Mười năm dài mộ mẹ chẳng ai trông
Cỏ có cao hơn nỗi nhớ trong lòng
Đất có lạnh hơn mùa đông Bắc Mỹ

Hải Vân đứng ngậm ngùi bao thế kỷ
Chảy về đâu lai láng nước Thu Bồn
Thuở học trò tôi hay đứng ven sông
Nghe nước vỗ dưới chân cầu Vĩnh Điện

Còn chăng nhỉ những con đường kỉ niệm
Những bạn bè dăm đứa lạc nơi đâu
Tóc chưa xanh mà đã vội hoen màu
Thời ly loạn tìm nhau trong ký ức

Cho tôi ghé thăm trường Trần Quí Cáp
Những màu rêu gạch ngói củ còn chăng
Bài thơ xưa còn để dấu bên thềm
Tôi vẫn viết nhưng giọng buồn hơn trước

Đường Phố Hội chưa mưa đà ngập nước
Những căn nhà lụp xụp nối vai nhau
Đình Cẫm Phô, Khu Khỗng Miếu, Chùa Cầu
Tên nghe lạ nhưng vô cùng tha thiết

Cho tôi ghé bến xe đò Nam Phước
Lần cuối cùng em đến tiễn tôi đi
Ngày chia tay sao chẳng nói năng gì
Nghìn năm để mây buồn vương trong mắt

Bao giờ nhỉ tôi về thăm Núi Quế
Đứng bên cầu Chợ Đụn nước trôi xuôi
Mùa sim lên tím rực cả lưng đồi
Hương ngây ngất tôi mộng làm thi sĩ

Ai đứng đó bên kia bờ Giao Thủy
Khăn lụa vàng còn chít ở ngang vai
Nghiệp tầm tơ khuya sớm vẫn đeo hoài
Nghề canh cửi chắc còn nhiều cực khổ

Trái tim tôi có một dòng máu đỏ
Sẽ một ngày chảy đến tận Câu Lâu
Nước sông Thu dù lụt lội đục ngầu
Nghe vẫn ngọt như bòng bong Đại Lộc

Bao giờ nhỉ tôi trở về Đà Nẵng
Nghe ngàn khơi thổi lạnh xuống sông Hàn
Bến Bạch Đàng còn những chuyến đò sang
Ngày hai buổi nối cầu qua An Hãi

Em Trường Nữ có bao giờ trở lại
Thả tơ tình trêu chọc đám con trai
Đường Hùng Vương thuở ấy rất là dài
Sao quá ngắn trong những chiều chung bước

Mây có trắng trên đỉnh chùa Non Nước
Mưa có buồn giăng kín núi Tiên Sa
Về chưa em sương phủ xuống Sơn Chà
Còn chăng nhĩ dấu chân tình trên cát

Tôi một thuở hay ôm đàn đứng hát
Bài ca buồn tiếng quốc vọng đêm khuya
Quảng Nam ơi khúc ruột đã chia lìa
Chiều viễn xứ ngậm ngùi cho non nước

Tôi đã bảo thơ tôi buồn hơn trước
Đời lưu vong chẳng hẹn buổi quay về
Câu hỏi nầy chỉ hỏi để tôi nghe
Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng

 

Sư Bà kính thương,

Giờ đây Sư Bà đã trở về xứ Quảng,  trở về với ngôi chùa xưa, trở về với Quê Hương Việt Nam mến yêu, những nơi mà ngày xưa Sư Bà đã đi qua, đã gieo trồng hạt giống Bồ Đề trên xứ Việt, Quê Hương mình giờ đây vẫn chìm ngập trong khổ đau, với đói nghèo, lạc hậu, bao giờ, biết đến bao giờ mới hết khổ đau cho Đức Địa Tạng Vương tròn hạnh nguyện mới thành Phật? con ước mong sao Việt Nam thành Tịnh Độ cho mọi người được sống an lạc

Con thành kính cúi đầu đảnh lễ và nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Sư Bà:

Một tánh linh minh,
Tây Phương trực vãng
Ba thân thanh tịnh,
Chánh giác vị thành.
Chứng pháp nhẫn vô sanh,
Ngộ chân thừa đại định

Ngưỡng nguyện Giác Linh cao đăng Phật Quốc, bất vong nguyện lực, tái hiện đàm hoa, thể nhập Ta Bà, tồi tà phụ chánh, ứng hóa độ sanh, khứ lai tự tại

Con thành tâm xin Giác Linh Sư Bà chứng giám cho tấm lòng của con.

Nhân đây, một lần nữa, con xin kính tri ân Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác Thích Như Điển, Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đã cho con cơ hội đọc tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm.

Kính cám ơn Chư Tôn Đức Tăng Ni, cũng như quý Phật tử đã viết bài Tưởng Niệm Sư Bà, nhờ vào đó con mới biết được phẩm hạnh cao quý của Sư Bà và rất kính ngưỡng

 

Tri ân Thầy đã viết bài

Nêu cao phẩm hạnh Sư Bà Diệu Tâm

Bảo Quang một cõi sáng ngần

Lưu truyền mạng mạch cho đàn hậu sinh

Cuộc đời lắm cảnh điêu linh

Hiện thân tu sĩ hy sinh giúp đời

Trải qua vật cảnh sao dời

Thuyền từ thể hiện chở người qua sông

Cuộc đời sắc sắc không không

Hoàn thành sứ mạng thong dong Sư về

Chúng con thương tiếc trăm bề

Nụ cười hiền hậu vỗ về chúng con

“Giữ sao giới đức vuông tròn

Pháp thân ta mãi đầy còn hư không

Lắng lòng nghe tiếng pháp âm

A Di Đà Phật hiện thân Sư về”

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bái

Đệ tử Diệu Danh
Hannover ngày 11/11/2021

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 10365)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 18758)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7735)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6548)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 6023)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6588)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7187)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 6999)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11314)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6344)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]