Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Dạy Đầu Tiên

05/11/202122:06(Xem: 2326)
Lời Dạy Đầu Tiên
                                 su ba dieu tam 11                                    Lời Dạy Đầu Tiên
                       Bài viết của Sa Di Ni Thích Nữ Quang Huệ do Cư Sĩ Diệu Danh diễn đọc




Ngày ấy cách đây khoảng 15 năm, một buổi sáng đủ duyên lành con về chùa lễ Phật, bỡ ngỡ không biết lạy Phật sao cho đúng. Trước chánh điện trang nghiêm con chắp tay quỳ xuống cúi đầu, khi con chuẩn bị đứng lên thì có một tà áo vàng đứng bên cạnh, con thật sự lo lắng và hồi hộp. Khi đứng hẳn lên, bên con là Sư Bà với ánh mắt hiền từ, giọng nói nhỏ nhẹ: „Để Sư bà dạy con cách lạy Phật“ và từ đó con biết thế nào là lạy Phật đúng ý nghĩa.

 

Nhân duyên kết nối nhân duyên, con được về chùa Bảo Quang tu tập. Nhưng một bước ngoặc lớn trong cuộc đời mà con chưa bao giờ nghĩ tới, chắc có lẽ do những kiếp trước con đã được kết duyên lành với Tam Bảo hay sao mà kiếp này về chùa Bảo Quang con được hầu Sư Cố 1. Những ngày đầu tiên Sư Cố dạy, con không thể hiểu được vì ngăn cách bởi ngôn ngữ vùng miền, nhưng với thời gian con làm quen dần ngôn từ hằng ngày của Sư Cố. Nhờ những tháng ngày hầu cạnh Sư Cố mà tâm trí con được mở mang, chí nguyện xuất gia của con ngày một thêm lớn.

 

Hạnh phúc thay duyên lành đã đến, con được xuất gia với Thầy con là Sư Cô Tuệ Đàm Nghiêm dưới sự chứng minh của Sư Cố và được thọ Sa di ni giới. Từ đó con được thuận duyên hầu cạnh Sư Cố con nhiều hơn.

 

Những lần hầu Sư Cố đi dạo, hay làm một việc gì đó, Sư Cố con thường nói ít, nhưng những cử chỉ hành động của Người đã dạy cho con bài pháp vô giá trên con đường tu tập chuyển hóa tâm thức.

 

Viết đến đây bao nhiều kỷ niệm dưới ngôi Già Lam Bảo Quang-Hamburg khi đựợc hầu Sư Cố gợi lại trong trí tưởng của con, không sao ngăn được dòng nước mắt, dù con đã cố gắng.

 

Con nhớ lắm, từng cử chỉ ánh mắt, từng nụ cười lời nói, dáng đi khoan thai. Con nhớ mãi, có một lần 4 giờ sáng con phải về cho kịp giờ làm, khi con sắp rời khỏi khuôn viên chùa, bỗng nhiên giọng Sư Cố vang vọng từ hướng cầu thang. „Con ơi! Nhớ lạy Phật xong rồi hãy về“. Lúc bấy giờ nhờ nương vào lời chỉ dạy của Sư Cố mà con chợt nhận ra rằng, dù là ở thế gian, trước khi rời khỏi nhà cũng phải thưa với ba mẹ, vậy tại sao trong chốn Thiền môn con không thực hiện được việc này. Con thật sự thấy có lỗi với chính bản thân. Bởi lời dạy lạy Phật của Sư Cố năm xưa vẫn còn vang vọng bên con: “Con biết không? Đức Phật đã đầy đủ mọi công đức, trí tuệ từ bi viên mãn“. Còn bản chất của chúng sanh là tự cao, tự đắc, ngạo mạn. Vì lẽ đó, chúng ta cần lạy Phật để thấy tâm mình sao nhỏ hẹp đồng thời lễ Phật là để ta dẹp bỏ ngã mạn cho chính mỗi người, nhờ đó mà mọi công đức được phát sanh và trí tuệ tăng trưởng. Lời chỉ dạy thâm tình đó của Sư Cố, Người mà con đã được nghe về đạo hạnh cao cả và tình thương bao la Sư Cố dành cho hàng Phật tử tại gia khắp bốn phương, nghĩa cử cao đẹp này con nguyện khắc dạ ghi tâm.

 

Những lúc hầu Sư Cố con đọc sách, hoặc nhiều việc khác v.v… Sư Cố luôn nhẹ nhàng chỉ dạy cho con. Một hôm Sư Cố gọi con đến bên cạnh và nói:

“Sư Bà không có gì cho con ngoài chữ Nhẫn để con làm hành trang tu tập cho những ngày sắp tới“. Lúc bấy giờ con cảm nhận được tình thương bao la mà Sư Cố đã dành cho con. Sư Cố đã chắp thêm cho con đôi cánh, để con bay cao, bay xa hơn nữa vào bầu trời trí tuệ. Trước thâm ân này con thầm hứa với mình, hãy nỗ lực trong mọi hoàn cảnh để đáp đền ơn đức cao vời này.

 

Thế rồi Sư Cố không còn khỏe như xưa nữa, đi lại khó khăn nhưng Sư Cố luôn khắc phục nhằm chia sẻ với chúng con việc hầu cạnh và thể hiện cho chúng con thấy Sư Cố là nguồn năng lượng từ bi vô bờ bến, con nhận ra rằng, thế nào là người từ bi đức độ, đạo hạnh cao cả. Sư Cố sẽ luôn là tấm gương sáng cho con vững bước trên con đường tu tập mà con đã chọn. Con nguyện sẽ cố gắng khắc phục mọi khó khăn noi gương đại hạnh của Người. Nghiêm trì giới luật tiến tu đạo nghiệp, không phụ công ơn giáo dưỡng cao dày của Sư Cố.

 

Cơn vô thường lại đến, Sư Cố nhẹ bước ra đi, dẫu con biết cái gì đã có sinh phải có diệt, có tụ phải có tán cũng như nước chảy xuôi đi không bao giờ trở lại, hoa tàn lá rụng là định luật tự nhiên. Nhưng đau xót thay trước sự mất mát to lớn này con không ngăn được nỗi niềm thương tiếc, con cố gắng không để giọt nước mắt tuôn chảy, ôi khó làm sao! Vì Sư Cố là bậc Tôn sư giáo dưỡng tác thành cho con giới thân huệ mạng, dìu dắt cho con từng bước trên nấc thang tìm về chánh pháp, trở về với Phật tánh như lời dạy thuở ban đầu của Sư Cố. Sư Cố ra đi không trở lại nữa rồi. Phải chăng Sư Cố muốn tròn hạnh nguyện là người cho đi không nhận lại bao giờ!...

 

Trong ý nghĩa cao thượng này, con thành kính đảnh lễ và tiễn biệt Giác Linh Sư Cố, nguyện Giác linh Sư Cố Cao đăng Phật Quốc.

 

Kính bái biệt Sư Cố,

Con: Sa di ni Thích Nữ Quang Huệ
Tại Giác Linh Đường Chùa Bảo Quang, ngày 02.09.2021




facebook

youtube



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7677)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18566)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5256)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7278)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4355)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17142)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8177)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4633)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5408)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5070)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567