Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Dạy Đầu Tiên

05/11/202122:06(Xem: 3102)
Lời Dạy Đầu Tiên
                                 su ba dieu tam 11                                    Lời Dạy Đầu Tiên
                       Bài viết của Sa Di Ni Thích Nữ Quang Huệ do Cư Sĩ Diệu Danh diễn đọc




Ngày ấy cách đây khoảng 15 năm, một buổi sáng đủ duyên lành con về chùa lễ Phật, bỡ ngỡ không biết lạy Phật sao cho đúng. Trước chánh điện trang nghiêm con chắp tay quỳ xuống cúi đầu, khi con chuẩn bị đứng lên thì có một tà áo vàng đứng bên cạnh, con thật sự lo lắng và hồi hộp. Khi đứng hẳn lên, bên con là Sư Bà với ánh mắt hiền từ, giọng nói nhỏ nhẹ: „Để Sư bà dạy con cách lạy Phật“ và từ đó con biết thế nào là lạy Phật đúng ý nghĩa.

 

Nhân duyên kết nối nhân duyên, con được về chùa Bảo Quang tu tập. Nhưng một bước ngoặc lớn trong cuộc đời mà con chưa bao giờ nghĩ tới, chắc có lẽ do những kiếp trước con đã được kết duyên lành với Tam Bảo hay sao mà kiếp này về chùa Bảo Quang con được hầu Sư Cố 1. Những ngày đầu tiên Sư Cố dạy, con không thể hiểu được vì ngăn cách bởi ngôn ngữ vùng miền, nhưng với thời gian con làm quen dần ngôn từ hằng ngày của Sư Cố. Nhờ những tháng ngày hầu cạnh Sư Cố mà tâm trí con được mở mang, chí nguyện xuất gia của con ngày một thêm lớn.

 

Hạnh phúc thay duyên lành đã đến, con được xuất gia với Thầy con là Sư Cô Tuệ Đàm Nghiêm dưới sự chứng minh của Sư Cố và được thọ Sa di ni giới. Từ đó con được thuận duyên hầu cạnh Sư Cố con nhiều hơn.

 

Những lần hầu Sư Cố đi dạo, hay làm một việc gì đó, Sư Cố con thường nói ít, nhưng những cử chỉ hành động của Người đã dạy cho con bài pháp vô giá trên con đường tu tập chuyển hóa tâm thức.

 

Viết đến đây bao nhiều kỷ niệm dưới ngôi Già Lam Bảo Quang-Hamburg khi đựợc hầu Sư Cố gợi lại trong trí tưởng của con, không sao ngăn được dòng nước mắt, dù con đã cố gắng.

 

Con nhớ lắm, từng cử chỉ ánh mắt, từng nụ cười lời nói, dáng đi khoan thai. Con nhớ mãi, có một lần 4 giờ sáng con phải về cho kịp giờ làm, khi con sắp rời khỏi khuôn viên chùa, bỗng nhiên giọng Sư Cố vang vọng từ hướng cầu thang. „Con ơi! Nhớ lạy Phật xong rồi hãy về“. Lúc bấy giờ nhờ nương vào lời chỉ dạy của Sư Cố mà con chợt nhận ra rằng, dù là ở thế gian, trước khi rời khỏi nhà cũng phải thưa với ba mẹ, vậy tại sao trong chốn Thiền môn con không thực hiện được việc này. Con thật sự thấy có lỗi với chính bản thân. Bởi lời dạy lạy Phật của Sư Cố năm xưa vẫn còn vang vọng bên con: “Con biết không? Đức Phật đã đầy đủ mọi công đức, trí tuệ từ bi viên mãn“. Còn bản chất của chúng sanh là tự cao, tự đắc, ngạo mạn. Vì lẽ đó, chúng ta cần lạy Phật để thấy tâm mình sao nhỏ hẹp đồng thời lễ Phật là để ta dẹp bỏ ngã mạn cho chính mỗi người, nhờ đó mà mọi công đức được phát sanh và trí tuệ tăng trưởng. Lời chỉ dạy thâm tình đó của Sư Cố, Người mà con đã được nghe về đạo hạnh cao cả và tình thương bao la Sư Cố dành cho hàng Phật tử tại gia khắp bốn phương, nghĩa cử cao đẹp này con nguyện khắc dạ ghi tâm.

 

Những lúc hầu Sư Cố con đọc sách, hoặc nhiều việc khác v.v… Sư Cố luôn nhẹ nhàng chỉ dạy cho con. Một hôm Sư Cố gọi con đến bên cạnh và nói:

“Sư Bà không có gì cho con ngoài chữ Nhẫn để con làm hành trang tu tập cho những ngày sắp tới“. Lúc bấy giờ con cảm nhận được tình thương bao la mà Sư Cố đã dành cho con. Sư Cố đã chắp thêm cho con đôi cánh, để con bay cao, bay xa hơn nữa vào bầu trời trí tuệ. Trước thâm ân này con thầm hứa với mình, hãy nỗ lực trong mọi hoàn cảnh để đáp đền ơn đức cao vời này.

 

Thế rồi Sư Cố không còn khỏe như xưa nữa, đi lại khó khăn nhưng Sư Cố luôn khắc phục nhằm chia sẻ với chúng con việc hầu cạnh và thể hiện cho chúng con thấy Sư Cố là nguồn năng lượng từ bi vô bờ bến, con nhận ra rằng, thế nào là người từ bi đức độ, đạo hạnh cao cả. Sư Cố sẽ luôn là tấm gương sáng cho con vững bước trên con đường tu tập mà con đã chọn. Con nguyện sẽ cố gắng khắc phục mọi khó khăn noi gương đại hạnh của Người. Nghiêm trì giới luật tiến tu đạo nghiệp, không phụ công ơn giáo dưỡng cao dày của Sư Cố.

 

Cơn vô thường lại đến, Sư Cố nhẹ bước ra đi, dẫu con biết cái gì đã có sinh phải có diệt, có tụ phải có tán cũng như nước chảy xuôi đi không bao giờ trở lại, hoa tàn lá rụng là định luật tự nhiên. Nhưng đau xót thay trước sự mất mát to lớn này con không ngăn được nỗi niềm thương tiếc, con cố gắng không để giọt nước mắt tuôn chảy, ôi khó làm sao! Vì Sư Cố là bậc Tôn sư giáo dưỡng tác thành cho con giới thân huệ mạng, dìu dắt cho con từng bước trên nấc thang tìm về chánh pháp, trở về với Phật tánh như lời dạy thuở ban đầu của Sư Cố. Sư Cố ra đi không trở lại nữa rồi. Phải chăng Sư Cố muốn tròn hạnh nguyện là người cho đi không nhận lại bao giờ!...

 

Trong ý nghĩa cao thượng này, con thành kính đảnh lễ và tiễn biệt Giác Linh Sư Cố, nguyện Giác linh Sư Cố Cao đăng Phật Quốc.

 

Kính bái biệt Sư Cố,

Con: Sa di ni Thích Nữ Quang Huệ
Tại Giác Linh Đường Chùa Bảo Quang, ngày 02.09.2021




facebook

youtube



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8905)
Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
09/04/2013(Xem: 7506)
Hòa thượng Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi ( 1911 ) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp danh Như chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh là Thị Bửu. Từ nhỏ Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
09/04/2013(Xem: 6985)
Hòa thượng Huệ Quang, thế danh Nguyễn Văn Ân sing năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau theo mẹ về Trà Vinh. Năm 1902,Ngài xin xuất gia vào chùa Long Thành ở Trà Cú được Hòa thượng Thiện Trí mến thương đặt danh pháp là Thiện Hải. Ngoài giờ học Phật pháp, Ngài lại được Hòa thượng cho học thêm y học.
09/04/2013(Xem: 7096)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
09/04/2013(Xem: 7923)
Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
09/04/2013(Xem: 8064)
Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).
09/04/2013(Xem: 10361)
Hòa thượng Giới Nghiêm thế danh là Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. ngài xuất thân trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa Thượng Quang Diệu, chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
09/04/2013(Xem: 6748)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.
09/04/2013(Xem: 11505)
Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa-hắc-Tài, thân mẫu là Nguyễn-Thị-Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em : ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.
09/04/2013(Xem: 6269)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]