Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trưởng Lão Hòa thượng Thích Thiện Duyên (1926-2021)

23/04/202108:08(Xem: 3404)
Trưởng Lão Hòa thượng Thích Thiện Duyên (1926-2021)
ht thich thien duyen


Tiểu sử
Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Duyên




Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên, thế danh Võ Đình Như, sinh ngày 20/10/1926 tại thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ngài là con thứ 3 trong gia đình. Thân phụ và thân mẫu của Hòa thượng là cụ ông Võ Toản pháp danh Nhựt Toàn và cụ Bà Đặng Thị Chức pháp danh Diệu Phát.
Gia đình Ngài có truyền thống Phật giáo thuần thành.Với túc duyên nhiều đời, từ nhỏ, Ngài thường được bà nội dẫn đến chùa làng tụng kinh niệm Phật. Gặp lúc Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Hòa từ chùa Trà Can, Tháp Chàm – Phan Rang về tổ chức lễ truyền Tam Quy Ngũ giới tại chùa Tịnh An, Phù Cát, Bình Định, Ngài sớm thọ Tam quy Ngũ giới trong dịp này.

Xuất gia tu học

Năm 1941, cơ duyên thuần thục, lòng cảm mến Phật Pháp dâng cao, được sự chấp thuận của song thân, Ngài dõng mãnh phát tâm xuất gia khi vừa 15 tuổi. Ngài rời gia đình đến đầu sư nơi Hòa thượng Giáo thọ Thích Quảng Đức chùa Tịnh An, mong được nương bậc minh sư suốt đời tu học. Nào ngờ, chỉ mới 5 năm, Hòa thượng giáo thọ đã chích lý Tây quy, cao đăng thượng phẩm. Trước sự mất mác to lớn trong buổi đầu hành điệu, Ngài ở lại Tịnh An một thời gian để thù ân báo đáp công ơn khai thị.

Thời gian luống qua, lúc 21 tuổi, xót mình giáo pháp chưa thấm, thầy hướng dẫn lại không, Ngài quyết định lên đường cầu thầy học đạo để được chỉ dạy chỗ đến đi. Được biết, Đại lão Hòa thượng Thượng Giác hạ Tánh, viện chủ tổ đình Hưng Long, xã An Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, là một trong những ngọn Hải đăng của tỉnh thời bấy giờ, Ngài tìm đến đảnh lễ cầu thọ Pháp. Tại đây, Ngài được Đại Lão Hòa thượng Hưng Long nhận làm đệ tử và ban cho pháp danh là Quảng Thành. Sau một năm hầu thầy, học đạo, Ngài được bổn sư cho thọ giới Sadi với pháp tự là Thiện Duyên.

 

Phong trào chấn hưng Phật giáo lúc này đã lan rộng, khí thế học Phật bừng dậy từ Bắc chí Nam, các Phật Học Viện mở ra cùng khắp. Năm 1953, Phật Học Đường Nha Trang thành lập, Ngài được Hòa thượng bổn sư cho vào theo học tại đây. Năm 1956, Phật Học Đường Báo Quốc – Huế chuyển vào Nha Trang và nhập cùng với Phật Học Đường Nha Trang thành Phật Học Viện Trung Phần đặt tại chùa Hải Đức, do cố Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám viện. Trong thời gian theo học tại đây, Ngài là một trong những học tăng sáng giá của khóa học đầu tiên này.

Năm 1957, Ngài được Hòa thượng bổn sư cho thọ đại giới và ban cho Pháp hiệu là Quán Ngôn. Đại giới đàn Hộ Quốc này do Hòa thượng Giám viện tổ chức và Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên (đệ nhị Tăng thống GHPGVNTN) làm Đường đầu Hòa thượng. Giới thể châu viên, Ngài gia tâm nhiều vào hành trì Giới luật và bắt đầu cho sự nghiệp hoằng hóa sau này.

Hoằng pháp lợi sinh

Sau khi tốt nghiệp khóa học tại Phật Học Viện Hải Đức, Ngài được Tổng hội Phật giáo Việt Nam bổ nhiệm làm giảng sư trong giảng sư đoàn Trung phần. Trong thời gian này, Ngài đã đi giảng thuyết giáo lý khắp các tỉnh thuộc Trung phần như Nha Trang, Bảo Lộc (Lâm Đồng), Phú Yên, Quảng Ngãi và nhất là Quảng Nam.

Tại Quảng Nam, Ngài đã không quản gian lao, vượt thác trèo đèo, đến tận các vùng trung du hẻo lánh như Hiệp Đức, Hậu Đức, Trà My, Tiên Phước, Nông Sơn, Quế Sơn, Đại Lộc,…cho đến các vùng đồng bằng ven biển như Tam Hải (Núi Thành), Duy Hải (Duy Xuyên), Bình Minh (Thăng Bình),… Trong thời gian hoằng pháp tại Quảng Nam, Ngài thường dừng chân ở lại tại các trú xứ Pháp Bảo (Hội An), Hòa An (Tam Kỳ),… là những hội quán cơ sở Tổng hội Phật giáo thời bấy giờ.

Với lý tưởng dấn thân, hoằng pháp vi gia vụ, bằng tất cả nhiệt huyết đem giáo pháp vào đời, Ngài luôn tận tụy với sứ mệnh tại đất Quảng như một nhân duyên bổ xứ trong giai đoạn lịch sử xã hội biến động đầy khó khăn này

Phụng sự Giáo hội

Năm 1962, tỉnh Quảng Nam được chia thành 2 đơn vị là tỉnh Quảng Tín và Quảng Nam. Cuối năm 1962, Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Tín được thành lập. Tổng hội Phật giáo Việt Nam bổ nhiệm Ngài làm Hội trưởng, trụ sở tạm thời đặt tại Hội quán chùa Hoà An.

Năm 1963, khi pháp nạn bùng nổ, Ngài đã lãnh đạo, kêu gọi và cùng Chư Tăng Ni trong tỉnh chung lưng đấu cật bảo vệ đạo Pháp, đem lại an bình cho Phật giáo địa phương. Ngày 01/11/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, Pháp nạn tạm qua, sự sinh hoạt tu học của Tăng Ni trong tỉnh dần dần đi vào ổn định.

Xét thấy Giáo hội tỉnh nhà chưa có một cơ sở Tỉnh hội để làm việc, Ngài đã gia tâm thương thuyết với chính quyền thời bấy giờ, xin khu đất tại thôn Mỹ Thạch, xã Kỳ Hương (nay là phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ) để làm trụ sở Tỉnh hội. Ngài chủ trì và vận động khởi công xây dựng ngôi chùa vào ngày 17/11/1963, do Hoà thượng Thích Đôn Hậu chứng minh lễ đặt đá. Năm 1965, công tác xây dựng trụ sở Tỉnh Giáo hội tạm hoàn thành, đặt tên là chùa Đạo Nguyên.

Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài được Viện Hoá Đạo cử làm chánh đại diện tỉnh Quảng Tín cho đến ngày thống nhất đất nước (4/1975). Trong thời gian này, ngoài việc chăm lo công tác hành chánh của Giáo hội, Ngài còn chú trọng đến việc thiết lập hoằng pháp cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho tín đồ tu học, hình thành nên hệ thống Niệm Phật đường tự viện tại các vùng nông thôn trong tỉnh. Bên cạnh đó, Ngài luôn chú tâm đến việc đạo tạo Tăng tài nhân sự, nên thường xuyên mở khóa giảng dạy Kinh Luật Luận cho Tăng Ni trong các khóa An cư kiết hạ.

Năm 1977, tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và Đà Nẵng sát nhập làm một, Chư Tăng Ni 3 tỉnh họp lại, thành lập Ban đại diện Phật giáo Quảng Nam – Đà Nẵng, Ngài giữ chức vụ phó đại diện Phật giáo tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.

Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng được tổ chức và Ngài được Đại hội cử làm Phó Thường trực Ban Trị Sự mãi cho đến ngày chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.

Cùng lúc đơn vị hành chánh tỉnh Quảng Nam được thiết lập năm 1997, Trung ương Giáo hội đã giao nhiệm vụ cho Ngài làm trưởng ban vận động thành lập Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam. Nhờ nhiệt tâm vì đạo Pháp và đức tính khiêm hạ của mình, Ngài đã tổ chức Đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Quảng Nam lần thứ nhất thành tựu tốt đẹp. Tại đại hội này, Ngài được suy cử làm Trưởng Ban Trị Sự. Sau khi thành lập Tỉnh hội, Ngài liền thúc đẩy thành lập Trường cơ bản Phật học Quảng Nam và đảm trách Giáo thọ các môn Luật học. Bên cạnh đó, Ngài tiến hành tổ chức các kỳ Đại Giới đàn vào những năm 2000, 2004 để truyền trao giới cho Tăng Ni sinh đang theo học, ngõ hầu tạo tiền đề phát triển nhân lực cho Giáo hội tỉnh nhà.

Là một trong những vị thạch trụ của Phật giáo Miền Trung, năm 1981, Ngài được Giáo hội tín nhiệm cử vào chức vụ Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN. Năm 1996, Ngài được thỉnh cử làm Trưởng ban Hướng dẫn Phật tử TW GHPGVN và phụ trách qua các nhiệm kỳ cho đến nay. Tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VII, nhiệm kỳ 2012 – 2017, Ngài được suy cử vào thành viên Hội đồng Chứng minh và chức vị Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Hoằng truyền giới luật

Về phương diện Giới luật, là một Tăng sĩ tinh thông học giới, Ngài luôn lấy Giới làm trọng, tích cực phát huy vai trò hàng đầu của Giới luật. Vì thế, Ngài thường được các nơi cung thỉnh tham gia công tác truyền giới hoằng luật như: làm Giáo thọ trong các trú xứ an cư kiết hạ của Chư Tăng địa phương, làm dẫn thỉnh sư Đại Giới Đàn Vĩnh Gia (Đà Nẵng, 1970), Ban khảo hoạch Đại Giới đàn Thiện Hoà (Sài Gòn, 1980), Giáo thọ A Xà Lê Đại Giới đàn Phước Huệ (Đà Nẵng, 1996), Giáo thọ A Xà Lê Đại Giới Đàn Tịnh Khiết (Huế – 2000), Đàn đầu Hoà thượng Đại Giới đàn Minh Giác (Quảng Nam, 2000), Giáo thọ A Xà Lê Đại Giới đàn Khánh Anh (Bình Định, 2000), Đàn đầu Hoà thượng Đại giới đàn Ân Triêm (Quảng Nam, 2000), Chứng Minh Đại Giới Đàn Trí Thủ (Đà Nẵng, 2008) và được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Phước Trí (Đà Nẵng, ngày 17,18,19 tháng 6 năm 2013), Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Kế Châu (Bình Định), ngày 21 – 23/09/2013, Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn Vĩnh Gia (Quảng Nam), ngày 26 – 28/09/2015. Có thể nói, dù bất cứ lĩnh vực nào, thời kỳ nào Hoà thượng luôn là người hết mình cho công việc. Ngài luôn đặt sự tồn vong của đạo pháp lên hàng đầu, lấy hoằng pháp làm sự nghiệp, xem Giáo dục Tăng Ni là nền tảng của sự phát triển đạo Pháp, xem Giới luật là giềng mối của sự lớn mạnh Tăng già, Ngài là tấm gương về sự tận tuỵ, khiêm hạ, đạm bạc xứng đáng cho hàng hậu tấn noi theo.

Do niên cao lạp trưởng, Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Duyên - Phó Pháp chủ Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh GHPGVN đã thu thần viên tịch vào lúc 6 giờ 15 phút sáng ngày 18-4-2021 (nhằm ngày mùng 7-3-Tân Sửu) tại chùa Đạo Nguyên (phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam).

Ca Sa Nhớ Người.

Phù Cát Giả, Thác Sinh Tuệ Dưỡng.
Chốn Bụi Hồng, Quy Ngưỡng Tam Tôn.
Nhân Duyên Thoát Tục Niệm Ơn,
Đình Như - Ban Tặng, Mang Ân Trọn Đời.

Từ Thửa Nhỏ, Ngõ Lời Thông Huệ.
Cảnh Tùng Lâm, Nhất Kệ Trì Danh.
Thuộc Lầu Kinh Phật Tâm Thành.
Phát Nguyện Trì Giới, Hạnh Lành Xuất Gia.

Cần Cầu Thỉnh, Ngôi Nhà Chánh Pháp,
Chốn Thâm Nghiêm, Bửu Tháp Uy Linh,
Nương Ngài Quảng Đức Trì Kinh,
Học Thời Hành Điệu, Lộ Trình Tiến Tu.

Năm Năm Bước, Huấn Từ Ngôn Giáo,
Nào Ngờ Đâu, Khoác Áo Quy Tây.
Thủ Thời Luyện Ngọc Thờ Thầy,
Đến Kỳ Bái Kiến, Tháng Ngày Tịnh Chơn.

Hưng Long Cảnh, Tâm  Hồn Khôn Lớn.
Nếm Tương Chao, Thấm Đượm Tình Chung.
Lời Ngài - Giác Tánh- Đại Hùng,
“Quảng Thành “Trao Nhận, Sáng Bừng “Thiện Duyên”.

Kỳ Thọ Giới, Đắc Thiền An Trú,
Tham Vấn Cầu, Kệ Phú -“Quán Ngôn”.
Thong Dong Tất Dạ Tinh Khôn,
Khởi Lòng Học Đạo, Thâm Ân Luyện Tầm.

Viện Nha Trang, Thanh Âm Hùng Hậu,
Luật Kinh Thư, Gối Đầu Ngày Đêm.
Ba Năm Sáng Chói Cửa Thiền.
Vững Hồng Danh Ngọc, Sóng Êm Biển Gầm.

Chốn Xứ Huế, Hương Thầm Mùi Đạo.
Báo Quốc Thời, Bước Dạo Nấu Kinh.
Trăng Vàng Soi Tận Chính Mình,
Luyện Tâm Bền Chí, Đăng Trình Viễn Du.

Hộ Quốc Đàn, Dáng Từ Trượng Khí,
Ngôi Đàn Đầu, Đệ Nhị -Giác Nhiên.
Học Ngài Trí Thủ Châu Viên,
Hành Thời Thuyết Giảng, Tịnh Thiền Đạt Âm.

Giảng Sư Đoàn, Vui Tầm Sóng Gió,
Niềm Trung Kỳ, Chẳng Khó Gian nguy.
Khởi Lòng Tôn Quý Quy Y,
Thiện Duyên Trao Mạch, Pháp Trì Trọng Tăng.

Dấu Thời Bước, Nhớ Rằng Kính Phật.
Độ Quần Mê, Khỏi Tật Tham Sân.
Ban Trao Đại Diện Xứng Tầm,
Nghìn Xưa Mây Trắng, Cỡi Tâm Hoá Thành.

Bao Chức Vụ, Chẳng Đành Khó Nhọc,
Chí Khiên Trì, Tự Học Kinh Hoa,
Tự Tay Dựng Tháp Bảo Toà,
Đạo Nguyên Viện Chủ, Ngôi Nhà Tỉnh Tu.

Yết Ma Thỉnh, Huấn Từ Trao Giới.
Giáo Thọ Sư, Dự Thời Truyền Bang
Đàn Đầu Hoà Thượng Nghiêm Trang
Kế Châu- Phước Trí, Y Vàng Ngữ Ngôn.

Phó Pháp Chủ, Suy Tôn Cung Thỉnh,
Sáng Mạch Huyền, Thức Tỉnh Linh Sơn.
Trăng Treo Y Bát Cung Đờn,
Phòng Thiền Vắng Dáng, Nhớ Ôn Cõi Này.

An Trú Định, Bậc Thầy Quảy  Dép.
Chốn Liên Trì, Tâm Ghé Thuyền Đi.
Như Nhiên Niệm Phật A Di,
Buông Xả Tự Tại, Chẳng Bì Vướng Ai.

Giác Ngộ Tịch, Chẳng Phai Lời Dạy.
Thất Chúng Từ, Ngộ Thảy Pháp Hoa.
Kim Quan Đỉnh Tuệ Hà Xa
Lưu Danh Bảo Tháp, Ca Sa Nhớ Người.

                 Tk: Thích Minh Thế
                 Bút danh: Hỷ Tâm Hải Triều.
                 Bút hiệu: Tịnh Nhật Vân Quang
                 Ngày 19-04-2021
                 Ngày Âm Lịch: 08-03- Tân Sửu.
Hàng Hậu Học Chúng Con: Tỳ Kheo Thích Mình Thế Cung từ kính tiễn Trưởng Lão Cao Đăng Bảo Sở, Hội Thuỳ Liên Hoa, Ao Sen Cửu Phẩm, Cánh Hạc Thong Dong.
      Ngài Phó Pháp Chủ thượng Thiện hạ Duyên, là vị cao tăng, học hiểu về giới luật, hành trì niên mật, phụng sự giáo hoá hàng đệ tử thất Chúng vang danh, nên được cung thỉnh vào Đàn Đầu Hoà Thượng tại Các giới đàn, Giáo Thọ Sư, Yết Ma A Xà Lê, Thất Chứng Tôn Sư, Dẫn Thỉnh Giới Sư.
      Trong các đại Giới Đàn từ Các Tỉnh Niềm Trung, và Tham dự các giới đàn chư vị Sơn môn tổ chức qua các thập niên trước.
        Chúng con may mắn phúc duyên hội đủ, năm 2006-2010-2014-2017-2018-2019. Lắng nghe những lời dạy, những kim chỉ nam để chúng con Vân trình lộ hành Du hoá.
        Duyên lành thù thắng năm 2016 chúng con phát Nguyện khắc mộc bản kinh, được sự hướng dẫn chư vị tôn túc, chúng con đã trở về Chùa Đạo Nguyên, Tam kỳ- Quảng Nam, diện kiến Ngài để chúng con thành tâm cung thỉnh Ngài vào Ngôi vị chứng minh khắc mộc bản Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Cú, và Một số bộ kinh do chúng con phát nguyện, Ngài hứa khả và chỉ dạy cho chúng con những lời thâm Thuý, cho chúng con nhiều bài học.
      Chúng con được sự hướng dẫn của Thượng Toạ Trú Trì chùa Đạo Nguyên, dẫn chúng con vào diện kiến trình bạch, Ngài chấp tay lắng nghe và hỏi:
       Thế có Đức Pháp Chủ, Ngài Lương Phương, Ngài Trí Hải, Ngài Đức Chơn...., hôm nay cung thỉnh Ôn vào chứng minh, Ôn hoan hỷ thọ trì, gia chú mật ứng thị nguyện cho con Tùng tâm như ý, gốc rễ Chánh Pháp Hưng Long.
      Lắng nghe lời Ngài Huấn từ, Ngài bảo rằng:
      “Muốn làm học trò Phật, phải quy tâm dưỡng tánh, lấy giới học làm nền tảng thước đo, Người nào có chính là học trò ngoan, mong con lưu lại nhớ lời Ôn..!”
      Ngài dạy tiếp:
       “Chánh pháp tồn tại là Tăng trì niệm, giữ gìn như những gì con khắc chú kinh Lăng Nghiêm, chính thần chú ấy là bảo hộ Tăng già, vì vậy ta khâm khen ngợi tán, như việc làm của chính Tên con...”
       Ngài bảo:
       “Minh Thế là đi giữa thế gian sáng như trăng, trong mộng mà không bận, trong tỉnh mà không say, trong đốn mà không lụy, trong ngộ mà chẳng thang...., con làm được vậy thì lộ trình tiếng từ sáng mãi, đúng là pháp khí ẩn danh..”
       Chúng con chấp tay lắng nghe rồi Ngài dạy tiếp, Ta trao cho con nhớ giữ gìn, rồi Ngài đọc và con đã ghi nhớ:
      “Bản Thể Tâm Nhi Hiện
       Tánh Du Hoá ngàn Du
       Khắc Cầu Chủng Phật Ngộ
       Minh Thế Độ Nhơn Từ...”
Giữa khung gian bao La thành tịnh ấy, đất trời mưa nhẹ, như chứng tri tâm thành cho chúng con.
      Ngài cười rồi nói: “ Kinh phí nhiều không con...? “
      Con chấp tay rồi bạch:
      “Bạch Ôn, chúng con phát nguyện có chư thiên gia trì, nên cái gì cũng đủ.”
      Thế rồi Ngài dạy rằng:
      “ Cho Ta phát Tâm mấy chữ cúng Chư Phật, nhỏ mà to, tâm cung kính mới vĩ đại vô ngần...”
       Rồi Ngài vào phương thất mang cho chúng con một phong bì nhỏ, chúng con đã tác phúc khắc kinh dâng lên Tam Bảo, cầu Nguyện Ngài luôn là bóng đại thụ cho chúng con nương theo.
       Chúng con y giáo phụng hành và cúi đầu cung thủ, lắng nghe và ghi vào tâm tâm thức.
        Hôm nay hay tin Ngài Quẫy Dép Về Tây, chúng con chúc từ cung tán bài Phú thơ dâng lên Ngài, ngưỡng nguyện Ngài chứng giám..!
      Nam mô từ Lâm Tế chánh tông tứ thập ngũ thế, Liễu Quán pháp phái, Đắc Giới Đàn Đầu Hòa Thượng, Đạo Nguyên đường thượng, húy thượng QUẢNG hạ THÀNH, tự THIỆN DUYÊN, hiệu QUÁN NGÔN, Trưởng lão Hoà thượng tân viên tịch.
       Hà Nội ngày nhớ, tâm hướng về Tam Bảo, phủ phục trước di ảnh thiết lập trong phương thất Hỷ Tịnh- Tại Hà Thành Phố thị, giữa những giọt mưa cuối tiết thanh minh.



***

facebook-1


***


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 4599)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4619)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4549)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10404)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 9792)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 5191)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6016)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6569)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7868)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9063)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567