Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Trình Bạch trong Lễ Thỉnh Xá Lợi Của Đức Tăng Thống - Hải Táng

05/05/202009:07(Xem: 5688)
Lời Trình Bạch trong Lễ Thỉnh Xá Lợi Của Đức Tăng Thống - Hải Táng

ht thich quang do
Lời Trình Bạch
 Trong Dịp Cung Thỉnh Xá Lợi Của Tôn Sư, Húy Thượng Quảng Hạ Độ,
Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hải Táng Hội Nhập Pháp Giới Tạng Thân

Kính bạch Tôn Sư;

Trước khi Thế Tôn nhập Niết bàn, Ngài đã có lời Di huấn cho hàng đệ tử rằng: “Các thầy Tỷ kheo, sau khi Như lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy”.

“…Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sinh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức”.

“…Tâm lý dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế nên các thầy phải chất trực tâm mình. Phải ý thức dua nịnh quanh co chỉ để dối trá, mà người nhập đạo thì không thể như vậy. Vì thế mà các thầy cần phải ngay thẳng tâm mình, lấy đức tính chất trực làm căn bản”.

“…phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì vì nhiều sự cầu lợi, nên khổ não cũng nhiều. Còn ít ham muốn thì không cầu hồ, không dục vọng, nên không có cái họa đó. Chỉ có như thế mà thôi, sự ít ham muốn cũng đã phải thực tập, huống chi sự ấy còn đem lại đủ các công đức. Người ít ham muốn thì không dua nịnh quanh co để cầu được lòng người, cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thừa thãi, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn. Có ít ham muốn là có niết bàn. Đó là hạnh ít ham muốn”.

“… Chánh niệm có sức lực vững mạnh, thì dẫu phải vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặc áo giáp lát đồng, thì không còn sợ hãi gì nữa. Đó là hạnh không quên chánh niệm”.

“..Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tấn, nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn”.

“…Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc nhất vượt biển sinh lão bịnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bịnh tật, là búa sắc chặt cây phiền não. Vì thế mà các thầy hãy dùng cái tuệ văn tư tu chứng, để tự tăng tiến ích lợi. Có trí tuệ soi chiếu, thì dẫu mắt thịt, cũng vẫn là kẻ thấy rõ nhất. Đó là hạnh trí tuệ”.

“…Các thầy Tỷ kheo, nếu hý luận đủ thứ thì tâm trí rối loạn. Như vậy, tuy đã xuất gia mà chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỷ kheo, hãy từ bỏ tức khắc sự hý luận rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, thì chỉ có cách cấp tốc diệt trừ cái họa hý luận…”.[1] 

Ngưỡng bạch Tôn Sư!

Qua lời giáo huấn vắn tắt tối hậu của đức Thế Tôn như vậy xong. Đêm ấy, Ngài liền chứng nhập Niết bàn và những lời giáo huấn tối hậu ấy đã được các bậc Tỷ kheo giới đức và các bậc Thánh trí trong đương hội bấy giờ y giáo phụng hành.

Chính đêm ấy, trăng tròn tháng hai âm lịch cách đây hai mươi sáu thế kỷ, Thế Tôn ở rừng Sa-la, giữa Song thọ của Xứ Kusinaga, Ngài chứng nhập Niết bàn, sau đó ứng hóa thân của đức Thế Tôn đã được Đại chúng tẩm liệm với nghi lễ của một vị Chuyển luân Thánh vương và cung thỉnh đến nơi an trí để làm Đại lễ Trà-tỳ. Đức Thế Tôn đã lưu lại Xá-lợi để làm lợi lạc thế giới trời, người. Mười sáu vương quốc vào thời đức Thế Tôn giáo hóa đều đến cung thỉnh Xá-lợi của Ngài để phụng thờ vào những nơi Tôn kính bậc nhất của quốc gia và xem xá-lợi của Ngài là quốc bảo tối thượng.

Lời giáo huấn tối hậu ấy của đức Thế Tôn, đã được lịch đại Tổ sư qua các thời kỳ từ Tây thiên, Đông độ, Việt nam truyền thừa xuyên suốt các thời đại, Tâm Tâm ấn chứng, Tổ Tổ tương thừa, khiến ngọn đèn Chánh pháp của Như lai sáng mãi giữa đêm trường sinh tử, làm cho ai có mắt thì thấy, có tâm thì cảm, có trí thì thấy rõ chánh tà, chân vọng, Đại tiểu, Thiên viên. Chánh thì theo, tà thì bỏ; chân thì nhận, vọng thì buông; Đại thì sống, tiểu thì xả; Viên thì trung chính vẹn toàn, thiên thì nghiêng lệch, xiêu vẹo.

Nay, Tôn Sư, một đời xuất gia học đạo và hành đạo, ướp xông ở trong Tịnh giới của đức Như lai, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức, giữa đất nước loạn ly bởi ý hệ, sơn môn nguy khó, tà chánh khó lường, giang sơn ngăn đôi dòng Bến hải; Sông Thạch hản một thuở chia đôi nhuộm đỏ máu người.

Đất Sài gòn một thời, Tôn sư nêu cao tâm chất trực, giữ gìn Chánh đạo, không kể tánh mạng, không khuất phục bạo quyền, không dua nịnh, dối trá, quanh co, dù phải đối mặt với muôn ngàn khó khăn như ngàn cân treo sợi tóc.

Dù sống giữa Đô thị Sài thành xa hoa với muôn ngàn lợi danh quyến rủ, nhưng Tôn sư vẫn sống cuộc đời thiểu dục tri túc, không chùa chiền, không tự viện cho riêng mình, không có một học trò truyền theo phả hệ, mà chỉ một đời tu đạo và hành đạo hiến dâng tuệ giác cho Đạo pháp, sự thanh tịnh và uy dũng cho Tăng già, mạng mạch truyền thừa chính thống cho Giáo hội, vận động tự do, dân chủ cho Dân tộc, hạnh phúc cho Dân sinh, công bằng cho xã hội và nhân quyền cho ngôi nhà chung của nhân loại.

Nên, cũng có lần, Tôn sư dạy chúng con liên lạc với Thiền Sư Thích Nhất hạnh và đức Đạt-lai-lạt-ma cùng với Tôn sư và các bậc cao đức khác, cùng có một Thông cáo chung về tình trạng bất ổn của thế giới và xây dựng một ngôi nhà chung cho toàn thể Phật giáo đồ trên thế giới, làm chỗ nương tựa giới đức an toàn cho nhân loại, nhưng rất tiếc lời dạy này của Tôn sư, chúng con chưa chu toàn được bổn phận, vì có nhiều chướng ngại khác nhau từ nội nhân đến ngoại duyên.

Tuy nhiên, ý nguyện chưa thành, nhưng Tôn sư vẫn kiên định và từng dạy chúng con: “Việc giữ gìn Môn phong, Giáo hội, Tăng Ni Phật Tử mỗi người tự thân phải lo lấy bằng chính giới đức thanh tịnh của mình, bằng tất cả năng lực Thiền định và Tuệ giác, chứ không thể cậy nhờ ai khác hay từ những thế lực nào khác. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bây giờ còn lại cột nhà cháy, nhưng tôi vẫn sẵn sàng ôm cột nhà cháy ấy mà chết”.

Với tâm kiên định của Tôn sư đối với Giáo Hội, với Đạo pháp và Dân tộc cũng như Nhân loại trước sau như một, bất biến, không thay đổi, không biến dịch, không tùy duyên, dứt khoát và bất động như thế.

 Nên, Trí Quang Thượng Nhân đã từng xưng tán Tôn sư: “Phật Pháp Công Thần”. Nghĩa là Vị Công Thần trong Phật Pháp hay “Pháp Vương Trung Lương Kiệt”. Nghĩa là Bậc Anh Kiệt trung lương của Đấng Pháp Vương. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đã có lời xưng tán và Tôn kính Tôn sư là vị Bồ tát Vô úy: “Bằng đức vô úy lớn lao, thầy Quảng Độ đã cứu chuộc được cho tất cả chúng ta. Có thầy Quảng Độ, chúng ta mới dám ngửa mặt lên nhìn người và mới dám nhìn thẳng vào con mắt của con cháu chúng ta. Thầy Quảng Độ là vị Bồ Tát có khả năng cứu chuộc được cho tất cả chúng ta, gột sạch được cho thế hệ chúng ta với cái tội hèn nhát, không dám lên tiếng trước bạo lực, áp bức và độc tài”. Đức Đạt lai lat-ma lại có lời xưng tán Tôn sư là “Bậc huynh trưởng tinh thần của Ngài”. Đức Đạt-lai-lạt-ma viết: “Tôi xin cầu nguyện cho người huynh trưởng tinh thần của chúng tôi và lời phân ưu đến với môn đồ pháp quyến. Mặc dù tôi đã không có cơ hội gặp mặt Đức Tăng Thống, tôi biết là Ngài đã hy hiến bản thân cho việc hoằng hoá độ sinh. Trong lúc chúng ta tưởng nhớ ngài, chúng ta có thể hoan hỉ là Ngài đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa”.[2] Và Elliott Abrams, Nguyên cố vấn An ninh quốc gia Hoa kỳ, Nguyên Thứ trưởng của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách nhân quyền đã có lời xưng tán: “Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ là anh hùng của hàng triệu nhân dân trong thế giới vì sự kiên định, ôn hoà, bảo vệ có ý thức cho tự do của nhân dân Ngài, cũng như cho mục tiêu tự do toàn thế giới”.[3]

Ngưỡng bạch Tôn sư!

Chúng con đã khâm thừa đúng Di huấn Tang lễ của Người và nay đã đúng lúc chúng con cung thỉnh Xá-lợi của Tôn sư đến Hải táng.

Suốt cả một cuộc đời Tôn sư hành đạo theo Di huấn của Như Lai, lấy giới đức thanh tịnh làm nền tảng, lấy chánh niệm để nhiếp phục hết thảy vọng trần, lấy đại định để nhiếp phục hèn tâm, lấy tuệ giác để nuôi dưỡng chánh chơn, diệt trừ tà vọng… lấy can đảm để kết tinh, khiến nghĩa khí trường tồn, bất hoại, nên sau khi làm lễ trà tỳ, Xá lợi của Tôn sư đã kết thành những chất liệu vô giá này, chúng con đã phụng thờ bằng tất cả lòng thành, nên những ai đối xử với Tôn sư bằng tà tâm vọng niệm, đến với Tôn sư bằng mưu lược cá nhân, bằng tâm điêu ngoa xảo trá, bằng tri thức hữu ngã nhị biên, thì họ hoàn toàn không đủ duyên lành để hiện kiến xá-lợi của Tôn sư, ngay khi chúng con đang phụng thờ ở Phương trượng suốt bốn mươi chín ngày qua và trong khi chúng con phụng thỉnh xá-lợi của Tôn sư nhập vào biển cả.

Ngưỡng bạch Tôn sư!

-      Xá-lợi của Tôn sư nhập vào biển cả để trấn giữ non sông, biển đảo nước Nam vẹn toàn mà Hồn Thiêng Sông Núi đã giữ gìn cho đến tận hôm nay;

-      Xá-lợi của Tôn sư nhập vào biển cả, khiến cho mọi dịch bệnh Vius Corona, khởi điểm từ Vũ Hán, trung quốc và lan nhiễm trên toàn thế giới sớm được chế ngự, chuyển hóa và chấm dứt;

-      Xá -lợi của Tôn sư nhập vào biển cả, khiến hết thảy sóng thức nơi biển tâm lắng xuống, hải chúng an hòa;

-      Xá-lợi của Tôn sư nhập vào biển cả, khiến cho biển trí suốt thông,sự lý không còn đối ngại, mọi ý thức hệ phân chia chấm dứt, mọi sai biệt Tôn giáo đều quy về nhất điểm giác ngộ;

-      Xá-lợi của Tôn sư nhập vào biển cả, khiến cho hết thảy các nguyện đều được nhập vào biển nguyện đại bồ đề;

-      Xá-lợi Tôn sư nhập vào biển cả, khiến cho muôn hạnh đồng quy vào biển tánh, ấy là biển pháp tánh bình đẳng, thuần nhất vị giải thoát.

Và trước khi phụng thỉnh Xá-lợi Tôn sư nhập vào biển tánh giác ngộ, chúng con nguyện tiếp tục làm theo những gì mà Tôn sư đã làm cho Đạo pháp, Dân tộc, Nhân loại và đã di huấn cho chúng con, bằng những di huấn công truyền hay bằng những di huấn ẩn truyền, giữa Thầy với trò; giữa đức Tăng thống với con; hoặc bằng những di huấn vô ngôn mà tự thân chúng con cảm ứng, giác liễu và nhất là nguyện làm đúng Giáo chỉ và Quyết định tối hậu của Tôn sư đã Di huấn bằng kim ngôn và văn bản, tiếp tục duy trì sinh mệnh và sứ mệnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, sau khi Tôn sư thị tịch.

Hôm nay là ngày trọng đại và thiêng liêng nhất đối với Thất chúng đệ tử chúng con:  chí thành cung thỉnh Xá-lợi Tôn sư nhập vào biển tính giác ngộ. Duy nguyện Giác linh Tôn sư phủ thùy chứng giám!

Nhất tâm đảnh lễ Tôn sư húy thượng Quảng hạ Độ, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội, Tăng Thống Đệ Ngũ Trưởng lão Hòa thượng Giác linh mẫn thùy chứng giám..



Phật lịch 2564, Chùa Từ Hiếu, Quận 8, Sài Gòn

Thay mặt Thất chúng đệ tử

 Đệ tử Tỷ khưu Thích Nguyên Lý


 

[1] Elliott Abrams: điện thư phân ưu nguyên văn tiếng Anh: “Elliott Abrams,
Senior Fellow, Council on Foreign Relations, Former Chairman, US Commission on International Religious Freedom (USCIRF), Former US Secretary of State for Human Rights
“Thich Quang Do was a hero to millions around the world for his steadfast, peaceful, conscientious support of the freedom of his own people and the cause of freedom around the world. He is one of the millions of victims of communism who paid with years of suffering, deprivation, and isolation for his insistence on freedom of conscience, thought, and religion. Few of us can aspire to the courage he always showed, but we can all be inspired by his life of benevolence and dedication”.

 



[1] Kinh Di Giáo, Trí Quang Thượng Nhân dịch.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2011(Xem: 5514)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 14282)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 7593)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
25/05/2011(Xem: 4209)
Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy HT. Thích Đồng Huy - Thành viên HĐCM, Ủy viên HĐTSTW GHPGVN, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Trưởng ban Quản trị Đại Tòng Lâm, Viện chủ Tu viện Vạn Hạnh.
05/05/2011(Xem: 4895)
Từ hôm hay tin Thầy lâm bịnh và tiếng nói yếu ớt của Thầy qua điện thoại làm con rất lo. Nhiều năm qua con cố gắng về thăm Thầy một lần nhưng ước vọng đơn sơ ấy đã không toại nguyện. Hơn hai mươi năm con xa Thầy, xa Tu viện, xa đồi núi thương yêu thưở nào. Mai này nếu được về thăm thì thầy đã ra đi biền biệt.
23/04/2011(Xem: 4101)
Thầy đã đọc toàn bộ bài “Tham luận” Nhân trong ngày “Hội thảo” nhớ “Tổ Sư”, Sự nghiệp tu chứng đắc lý chơn như “Ngài Liễu Quán”, sáng gương ngàn thế hệ.
21/04/2011(Xem: 7181)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
16/04/2011(Xem: 5904)
Kính lạy thầy, Trước mắt con là di bút Thầy để lại, nét chữ thân quen với màu mực còn đậm nét tinh khôi. Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong Thầy vừa an nhiên xã bỏ báo thân, dãi mây bạc giờ nương theo gió loãng tan mất dấu. Nẻo sinh tử Thầy thong dong qua lại, như đi trên những dặm đường quen để gieo trồng hạt giống từ bi, giáo hóa, độ sinh. Thân bệnh Thầy mang trong những năm tháng sau này, cho con biết rõ vô thường tất đến. Vậy mà nỗi đau đớn, bàng hoàng vẫn khơi động trong con khi đón nhận tin xa, bởi từ đây con vĩnh viễn mất Thầy trong kiếp sống này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567