Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy

25/05/201111:00(Xem: 4208)
Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy

Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy

HT. Thích Đồng Huy - Thành viên HĐCM, Ủy viên HĐTSTW GHPGVN, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,

Trưởng ban Quản trị Đại Tòng Lâm, Viện chủ Tu viện Vạn Hạnh.



htdonghuy.jpg

I. THÂN THẾ:

Hòa Thượng thế danh Phan Văn Đa, tự Thanh Tùng, pháp danh thượng Đồng hạ Huy, hiệu Trí Thắng (thuộc đời 43 phái Lâm Tế dòng kệ của Tổ Minh Hải - Pháp Bảo). Sinh năm 1919 tại làng Lãnh Đông, huyện Điện Bàng, tỉnh Quảng Nam . Thân phụ là ông Phan Thanh Quyến, thân mẫu là bà Huỳnh Thị Trợ. Gia đình có tất cả 5 người con, hai trai ba gái, Hòa thượng là người con thứ tư trong gia đình. Ngài mồ côi cha từ thuở nhỏ. Năm lên 8 tuổi, Ngài ở với nội và học Hán văn, lớn lên Ngài theo mẹ vào Nam sinh sống.

II. THỜI GIAN XUẤT GIA HỌC ĐẠO:

- Hòa thượng cùng mẹ xa quê hương sống lưu lạc miền Nam và dừng chân trên mảnh đất Phan Thiết (Bình Thuận) bằng nghề thợ may. Sinh trưởng trong một gia đình Nho phong và một lòng kính tin Tam Bảo, cơ duyên Phật pháp đã đến, năm 1938 Hòa thượng vừa tròn 19 tuổi, được sự đồng ý của mẹ cho xuất gia quy y với Thiền sư HƯNG TỪ, pháp danh Thị Lạc, hiệu Hạnh Thiện tại chùa Long Đoàn, núi Trà Cú (Bình Thuận).

- Năm 1942, được sự cho phép của Bổn sư, Hòa thượng thọ giới Sa di tại chùa Hưng Khánh (Bình Định), sau đó theo Hòa thượng Huyền Ý, chùa Liên Tôn (Bình Định) học luật được 1 năm.

- Năm 1943, Hòa thượng đã được trúng tuyển vào học tại Phật Học Đường Lưỡng Xuyên (Trà Vinh).

- Năm 1945, phong trào Cách mạng tháng 8 nổi lên, theo tiếng gọi của Tổ quốc, học Tăng phải ly tán, nhà trường phải tạm nghỉ, lúc bấy giờ Hòa thượng theo hoạt động Việt Minh, tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau khi đình chiến, năm 1955, Hòa thượng trở lại xuất gia và tu học tại chùa Phú Thạnh (Phú Nhuận, Sài Gòn) cầu pháp nhân duyên với Hòa thượng thượng THIỆN hạ HÒA và nhập học tại Phật Học Đường Nam Việt (chùa Ấn Quang, Chợ Lớn, Sài Gòn).

- Năm 1956, được sự đồng ý của Hòa thượng cầu pháp và Ban Giám đốc nhà trường, Hòa thượng được thọ tam đàn Cụ Túc tại chùa Pháp Hội (Chợ Lớn, Sài Gòn) do Hòa thượng thượng HÀNH hạ TRỤ Làm đàn đầu.

- Từ năm 1960-1963, Hòa thượng được Hòa thượng THIỆN HÒA đưa về trụ trì chùa Đại Tòng Lâm thuộc xã Phú Mỹ, quận Long Lễ, tỉnh Phước Tuy (nay là Thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu),

- Năm 1964, Hòa thượng xin theo học lớp chuyên khoa ở Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Ngài được giao phó giữ chức vụ Tri sự cho Bản viện.

III. THỜI KỲ HÓA ĐẠO:

- Năm 1960-1963, Đại Tòng Lâm Phật Giáo đang kiến thiết xây dựng và thiếu người trông coi, Hòa thượng là người lớn tuổi nhất tại Phật Học Đường Nam Việt, sau khi mãn khóa được Hòa thượng THIỆN HÒA điều về trụ trì chùa Đại Tòng Lâm, chăm lo công việc khai khẩn và kiến thiết. Nhưng nhận thấy sự học của mình còn yếu chưa đủ khả năng hoằng dương chánh Pháp, Hòa thượng xin phép Hòa thượng THIỆN HÒA nghỉ chức trụ trì và theo học lớp chuyên khoa Phật Học tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm và được giao chức vụ Tri sự chăm lo đời sống kinh tế cho viện.

- Năm 1964-1970, được Giáo hội điều về làm Ban Quản trang An Dưỡng Địa, Phú Lâm, Sài Gòn. Đồng thời là thành viên sáng lập hãng nước tương Vị Trai Lá Bồ Đề tại chùa Giác Sanh, Phú Thọ, Chợ Lớn.

- Năm 1970, khai sơn Tu viện Vạn Hạnh và khai khẩn trên 300 hécta đất tại xã Phú Mỹ để cấp cho Tăng Ni và Phật tử có nơi tu hành và sinh sống.

- Năm 1990, sáng lập chùa Vạn Thiện, Vạn Phước, Vạn An và trùng tu lần thứ nhất Tu viện Vạn Hạnh. Ngoài ra, Hòa thượng còn khai khẩn 20 hécta diện tích đất trên sườn núi Thị Vãi để trồng cây ăn trái và gây rừng, đồng thời còn lập ra nhiều am thất để cho chư Tăng có nơi tu học.

- Năm 1992, Hòa thượng Bổn sư (Thượng Hưng hạ Từ) viên tịch, giao Tổ Đình Pháp Hội cho Hòa thượng nhưng Hòa thượng giao lại cho pháp đệ là Thượng tọa Thích Ấn Chánh trông coi và xây dựng, hướng dẫn chư Tăng, tín đồ tu học.

- Năm 2000, trùng tu lần thứ 2 Tu Viện Vạn Hạnh.

a. Về hoạt động Giáo hội và Xã hội:

Với tinh thần yêu nước và luôn luôn phụng sự đạo pháp trong tinh thần vô ngã vị tha, hướng dẫn Tăng Ni Phật Tử tu học. Ngoài vấn đề cấp đất, xây dựng tự viện cho Tăng Ni tu học, trong giai đoạn này, Hòa thượng đóng vai trò quan trọng và giữ nhiều chức vụ tùy theo hoàn cảnh của xã hội để lèo lái con thuyền Phật Pháp cho tỉnh nhà.

- Năm 1972, được sự tín nhiệm của toàn thể Tăng Ni và Phật tử, Hòa thượng giữ chức vụ Phó Ban Đại diện GHPHVNTN tỉnh Phước Tuy, kiêm Chánh Đại diện Phật giáo quận Long Lễ và Chánh Đại diện khu tự trị Phật giáo làng Vạn Hạnh.

- Năm 1977, Hòa thượng làm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai. Đồng thời tham gia công tác Mặt trận Tổ quốc và Hội đồng Nhân dân huyện Châu Thành.

- Năm 1981, Hòa thượng là Ủy viên Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai.

- Năm 1986, Hòa thượng làm Phó Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai kiêm Chánh Đại diện Phật giáo huyện Châu Thành.

- Năm 1989, Hòa thượng làm Trưởng Ban vận động mở lớp giáo lý và thành lập trường Cơ Bản Phật học Đại Tòng Lâm.

- Năm 1990, Ngài là Phó ban Giám đốc Đại Tòng Lâm, đặc trách giám luật.

- Năm 1992 cho đến nay, Ngài là Uỷ viên Hội Đồng Trị sự Trung ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị sự Phật Giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kiêm Trưởng Ban giáo dục Tăng Ni tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu qua 4 nhiệm kỳ.

- Tại Đại hội Phật giáo khoá IV (1997), Ngài được tấn phong Hòa thượng và được suy cử vào Thành viên HĐCMTW GHPGVN. Cũng trong năm này, Ngài được bầu làm Trưởng Ban Quản trị Đại Tòng Lâm.

- Năm 2002, Ngài được bầu làm Ủy viên HĐND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu Khóa III năm 2002-2007..

- Năm 2009, vì tuổi cao sức yếu, nhưng được sự tín nhiệm của Tăng Ni, Ngài vẫn giữ chức Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khoá IV (2007-2012).

b. Về tổ chức Giới đàn:

 Bằng giới đức trang nghiêm thanh tịnh, mô phạm chốn Tòng Lâm, biểu tượng nơi quy hướng cho Tăng Ni và Phật tử, Hòa thượng đã đảm nhận:

- Đệ Nhị Tôn Chứng Tăng già, Giới đàn chùa Long Hoa, Long Đất, Đồng Nai vào năm 1976.

- Giáo Thọ A Xà Lê, Giới đàn chùa Long Thiền, Biên Hòa, Đồng Nai do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai tổ chức năm 1984.

- Trưởng Ban Kiến Đàn Đại Giới đàn Thiện Hòa I do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức năm 1993 tại Trường Cơ bản Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Giới đàn đã quy tụ trên 2000 giới tử.

- Trưởng Ban tổ chức Đại Giới đàn Thiện Hòa II do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức vào năm 1996 tại Trường Cơ bản Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Trưởng Ban tổ chức Đại Giới đàn Thiện Hòa III do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức vào năm 2000 tại Trường Trung cấp Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Trưởng Ban tổ chức Đại Giới đàn Thiện Hòa IV do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức vào năm 2003 tại Trường Trung cấp Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Hòa Thượng Đàn đầu Đại Giới đàn Thiện Hòa V do Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức năm 2006 tại Trường Trung cấp Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Hòa Thượng Đàn đầu Đại Giới đàn Thiện Hòa VI do Ban Trị sự  Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức năm 2009 tại Trường Trung cấp Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

c. Về Phiên dịch:

  Ngoài công tác Phật sự đa đoan và hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử tu học, Hòa thượng còn dành nhiều thời gian phiên dịch về Luật Tạng để lại cho hậu thế, các bộ sách Ngài đã phiên dịch là:

1. Tứ Phần Luật Tạng 60 quyển

2. Luật Học 01 quyển

3. Tỳ Kheo Ni Sao 03 quyển

4. Luật Học Cương Yếu  01 quyển

5. Tỳ Kheo Giới Bổn Sớ Nghiã  01 quyển

6. Phạm Võng Lược Sớ 10 quyển

7. Tỳ Kheo Tăng Sao. 03 quyển

8. Luật Tứ Phần như thích

9. Yết Ma Đại Cương  01 quyển

10. Phật Học Diễn Giảng

11. Tỳ Kheo Giới Bổn Lược Giải 01 tập

12. Tỳ Kheo Ni Giới Bổn Lược Giải ..01 tập

Ngài là vị Giám Luật nghiêm minh mẫu mực, giới đức và công hạnh của Ngài là tấm gương sáng ngời xứng đáng cho đàn hậu tấn kính ngưỡng noi theo.


IV. THỜI KỲ LÂM BỆNH:

Với 90 năm trên cuộc đời hạnh nguyện vị tha vô ngã, cống hiến cho đạo pháp và xã hội, Ngài là bậc đại thọ của Tăng Già, nào ngờ vô thường một thoáng, kiếp sống tạm bợ mong manh như sương như khói, phút chốc bổng giật mình, nhục thân của Hòa thượng đã mòn mỏi tự bao giờ, Hòa thượng lâm bệnh tuổi già sức yếu. Mặc dù môn đồ Pháp quyến và chư Tôn Đức lãnh đạo Ban Trị sự  Phật giáo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Tăng Ni các nơi nhứt tâm cầu nguyện, với sự tận tâm chữa trị của bác sĩ cầu mong Ngài sớm bình phục, nhưng vô thường vẫn là định luật nghìn xưa.

  Vào những ngày cuối cùng, Đại Giới đàn Thiện Hòa VI được khai mạc, trên giường bệnh Hòa thượng luôn luôn nhắc nhở và sách tấn theo dõi từng ngày cho đến khi Đại Giới đàn bế mạc và thành công.

Thế nhưng:

“Thân tứ đại phải về nơi tứ đại,
Cõi hồng trần ai cũng phải ra đi.”

Vì tuổi cao sức yếu, Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 18giờ45 phút, ngày 03-01-2010 (nhằm ngày 19/11/Kỷ Sửu) tại Tu viện Vạn Hạnh, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

Trụ thế: 90 năm - Hạ lạp: 55 năm.

Nam mô Khai Sơn Vạn Hạnh Đường thượng Từ Lâm Tế Chánh Tông tứ thập tam thế huý thượng Đồng hạ Huy hiệu Trí Thắng Hòa thượng Tôn sư chi Giác linh chứng giám.                  


Thay mặt môn đồ pháp quyến
 - Đệ tử Thích Minh Thiện thành kính phụng 






Tu Vien Van Hanh (1)Tu Vien Van Hanh (2)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2011(Xem: 5513)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 14278)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 7588)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
05/05/2011(Xem: 4895)
Từ hôm hay tin Thầy lâm bịnh và tiếng nói yếu ớt của Thầy qua điện thoại làm con rất lo. Nhiều năm qua con cố gắng về thăm Thầy một lần nhưng ước vọng đơn sơ ấy đã không toại nguyện. Hơn hai mươi năm con xa Thầy, xa Tu viện, xa đồi núi thương yêu thưở nào. Mai này nếu được về thăm thì thầy đã ra đi biền biệt.
23/04/2011(Xem: 4099)
Thầy đã đọc toàn bộ bài “Tham luận” Nhân trong ngày “Hội thảo” nhớ “Tổ Sư”, Sự nghiệp tu chứng đắc lý chơn như “Ngài Liễu Quán”, sáng gương ngàn thế hệ.
21/04/2011(Xem: 7179)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
16/04/2011(Xem: 5895)
Kính lạy thầy, Trước mắt con là di bút Thầy để lại, nét chữ thân quen với màu mực còn đậm nét tinh khôi. Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong Thầy vừa an nhiên xã bỏ báo thân, dãi mây bạc giờ nương theo gió loãng tan mất dấu. Nẻo sinh tử Thầy thong dong qua lại, như đi trên những dặm đường quen để gieo trồng hạt giống từ bi, giáo hóa, độ sinh. Thân bệnh Thầy mang trong những năm tháng sau này, cho con biết rõ vô thường tất đến. Vậy mà nỗi đau đớn, bàng hoàng vẫn khơi động trong con khi đón nhận tin xa, bởi từ đây con vĩnh viễn mất Thầy trong kiếp sống này.
05/04/2011(Xem: 4844)
Từ vùng đất địa linh nhân kiệt, chúa Nguyễn Hoàng lập nghiệp đầu tiên, Hòa thượng đã thác tích hiện thân đại sĩ, nương thuyền từ độ kẻ trong mê. Duyên lành sẵn có, tâm Bồ đề sớm phát, tuổi ấu thơ đã thắm nhuần đạo vị, chùa Hải Đức trưởng dưỡng chí xuất trần. Rồi đến độ tâm hoa khai phát, lúc tuổi thanh xuân, nơi chốn Tổ Tra Am, Hòa thượng quyết chí tu hành, cắt ái từ thân, thế phát bẩm sư với Tổ Viên Thành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567