Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ phụng thừa ủy thác của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, lãnh đạo Giáo Hội PGVN Thống Nhất

21/04/202008:00(Xem: 6162)
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ phụng thừa ủy thác của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, lãnh đạo Giáo Hội PGVN Thống Nhất

 

ht quang do-ht tue sy-2019
HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ
PHỤNG THỪA ỦY THÁC

CỦA ĐỨC ĐỆ NGŨ TĂNG THỐNG
LÃNH ĐẠO GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

 

Với thực trạng sinh hoạt của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hiện nay thì giải pháp tái cấu trúc cơ cấu nhằm phục hoạt GHPGVNTN của Đức Trưởng Lão Đệ Ngũ Tăng Thống Tân Viên Tịch là giải pháp tối ưu, không thể nào có một giải pháp khác tốt đẹp hơn được.  Đức Đệ Ngũ Tăng Thống đã ủy thác Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ giữ nhiệm vụ Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống.

Tâm huyết của Đức Cố Đệ Ngũ Tăng Thống với tuệ tri bừng tỏa trong giờ phút nghiêm trọng của lịch sử Giáo hội là phúc trạch của dòng truyền thừa mạng mạch Phật giáo Việt Nam một cách bất đoạn từ chư Tổ Quốc Sư đến chư Tổ Tăng Cang qua Đức Đệ Nhất Tăng Thống rồi đến Đức Đệ Ngũ Tăng Thống.  Chư Tôn đức Trưởng lão, chư Hòa thượng, Thượng tọa cùng quý vị Đại đức Tăng, Ni và đồng bào Phật tử Việt Nam nên cố gắng bỏ qua những dị biệt để thành tâm phụng hành ý chỉ của Đức Cố Đệ Ngũ Tăng Thống một cách trang nghiêm trong truyền thống cung kính chấp hành Tổ giáo của lịch sử Phật giáo dân tộc.  

Trong hoàn cảnh hoạt động rất khó khăn của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quê nhà nên Đức Đệ Ngũ Tăng Thống không thể triệu tập Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương của Viện Tăng Thống nhằm ủy thác những điều cơ mật và truyền thừa mạng mạch lãnh đạo Giáo hội truyền thống của Phật giáo Việt Nam.

1.- Những Điều Cơ Mật.

Tổ chức nào cũng có những điều căn bản tối mật là xương sống của tổ chức thì GHPGVNTN cũng không là một ngoại lệ.  Có những Cư sĩ Phật tử vì nhiệt thành với sự tồn vong của Giáo hội mà nóng vội phát biểu, viết lách bày tỏ quan điểm thiết tha của mình để góp một bàn tay vào việc củng cố và phát triển sinh hoạt của Giáo hội, nhưng vô hình chung các Cư sĩ đó làm cho tình trạng bất ổn của Giáo hội ngày càng trầm trọng hơn.  Nói một cách cụ thể ở đây là hai vấn đề. 

Một là, không nên ủng hộ chư Tôn đức nào vào vị trí điều hành Giáo hội ngoài việc y giáo phụng hành ý chỉ của Đức Cố Đệ Ngũ Tăng Thống nhằm thống nhất cơ cấu điều hành Giáo hội về mặt hình thức trước rồi nội dung sẽ từng bước ổn định tiếp theo. 

Hai là, chư Tôn đức Cao tăng đã hội ý những điều cơ mật trong một hoàn cảnh chính trị vô cùng đặc biệt của đất nước sau năm 1975 nên quý Ngài đã quyết định hàm dưỡng Tăng tài thuận duyên theo hoàn cảnh với mục đích chính là đào tạo Tăng tài trong và ngoài nước để trở nên thạch trụ của ngôi nhà lớn về lâu về dài.  Do vậy, Phật tử không nên bài bác chủ quan chư Tôn đức Tăng, Ni thuộc bất kỳ tổ chức Giáo hội nào.  Chư Tôn đức Tăng, Ni thuộc Giáo hội này cũng luôn luôn tôn kính chư Tôn đức Tăng, Ni thuộc Giáo hội khác theo đúng Thanh quy và Giới luật.  Đồng thời chư Tôn đức Giáo phẩm đã am tường những điều cơ yếu của GHPGVNTN thì cũng nên khéo léo và kín đáo chia sẻ gián chỉ với các Cư sĩ cận sự nam và cận sự nữ những uẩn khúc mà Giáo hội không tiện bộc bạch.

2.- Phụng Thừa Sự Ủy Thác.

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã phụng thừa sự ủy thác của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống để lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Ngày 12-5-2019, Đức Đệ Ngũ Tăng Thống đã ban hành Giáo chỉ số 19-VTT/TT/GC cung thỉnh Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đăng lâm pháp tịch vào hàng Trưởng lão Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương của Viện Tăng Thống. (1)

Ngày 24-5-2019, Đức Đệ Ngũ Tăng Thống đã ban hành Quyết định số 14-VTT/TT/QĐ thỉnh cử Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ thay thế Đức Tăng Thống vì trọng bệnh để lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở vị trí Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống. (2)

Ngày 7-4-2020, tức là ngày 15-3 năm Canh Tý, sau nhiều lần bái kiến và thảo luận với Đức Đệ Ngũ Tăng Thống do Đức Đệ Ngũ Tăng Thống triệu mời, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã cung kính phụng thừa sự ủy thác của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống để Ngài an tâm tịnh dưỡng vì thân mang trọng bệnh bởi tuổi cao sức yếu. (3) Xin mời xem video clip cuối bài này.

3.- Một Giải Pháp Tối Ưu.

 

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một trong số chư Tôn đức Giáo phẩm thạch trụ tòng lâm, là một bậc long tượng của Phật giáo Việt Nam đương đại.  Tuy Ngài sinh năm 1943, tức 77 tuổi, nhưng môn sinh của Ngài tại Đại học Vạn Hạnh và các Phật học viện rất nhiều, và hiện nay quý vị cựu môn sinh đó đều đã ở vào hàng giáo phẩm Hòa thượng hay Trưởng lão Hòa thượng trong và ngoài nước.  Ngài là một đồng chân xuất gia khi vừa 7 tuổi, và suốt cuộc đời tu hành của Ngài với một hành trạng không gợn một nét bụi trần.  Ngài là một học giả uyên bác và uyên thâm tam tạng kinh luật luận Phật học, làu thông triết học và văn học thế giới.  Ngài tinh thông nhiều ngoại ngữ như Lào văn (Phasa Lao), Pháp văn, Anh văn, Đức văn, Nhật văn, Sanskrit, Pali, và Hán văn.  Các tác phẩm của Ngài về kinh luận Phật học và văn học thế giới nhiều gần như vô kể và phần lớn được dùng làm sách giáo khoa ở bậc Đại học và các khóa tu học của Học tăng, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử khắp bốn châu lục Á, Âu, Mỹ và Úc.  Ngài được bổ nhiệm Giáo sư Đại học thực thụ [Full Professor] tại Đại học Vạn Hạnh năm 1970, lúc Ngài mới 27 tuổi.

Trong thời gian mười năm từ năm 1965 đến 1975, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã phụ giúp Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu điều hành Viện Đại học Vạn Hạnh ngày một phát triển thành một Đại học Phật giáo nổi tiếng ở Đông Nam Á, và trong thời gian này Thầy Tuệ Sỹ là Chủ bút Tạp chí Tư Tưởng do Viện Đại học Vạn Hạnh phát hành, một tạp chí văn học, triết học, và Phật học đã đóng góp vào việc hình thành một phong cách văn hóa cho giới trí thức và thanh niên Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là tại Sài Gòn, rất nhân bản và nhân ái.

Việc thỉnh cử và ủy thác Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống là giải pháp tối ưu, không thể nào có một giải pháp khác tốt đẹp hơn được.  Đức Đệ Ngũ Tăng Thống đã cùng làm việc với Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ trong một thời dài hơn mười năm tại Đại học Vạn Hạnh, và đặc biệt là hai Ngài đã cùng thực hiện hai công tác vô cùng quan trọng nên Đức Đệ Ngũ Tăng Thống đã biết rõ khả năng và tâm nguyện phục vụ Đạo pháp và Dân tộc của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ.

Khi Hòa thượng Thích Minh Châu, Viện trưởng Đại học Vạn Hạnh, đi công tác nước ngoài thì Hòa thượng Thích Quảng Độ đảm nhiệm vị trí Quyền Viện trưởng với sự phụ tá điều hành rất chuyên nghiệp của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ nên Hòa thượng Thích Quảng Độ vô cùng tâm đắc về người phụ tá đã làm việc đúng với tính cách công bình, công chính, công minh, chân tình,  và thẳng thắn của Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Sau ngày 30-4-1975, Cộng Sản tịch thu và biến Đại học Vạn Hạnh thành một cơ sở Đại học Sư phạm thì Hòa thượng Thích Quảng Độ đã đi trước Cộng Sản một bước bằng cách chuyển toàn bộ Thư viện Phật học về một cơ sở trên đường Võ Duy Nguy (bây giờ là đương Nguyễn Kiệm) và dựng tạm lên tấm bảng “Viện Phật Học Vạn Hạnh.”  Viện Phật Học Vạn Hạnh chỉ giữ lại được năm nhân viên là Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, Ni sư Thích Nữ Trí Hải, và Giáo sư Nguyễn Đăng Thục.  Trong năm nhân viên đó thì chỉ có Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ là “thanh niên” nên công việc chuyển hàng tấn sách vở là do Thầy Tuệ Sỹ đảm nhiệm.

Lời cảm niệm ân sư của Hòa thượng Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kính dâng lên Giác Linh Đức Cố Đệ Ngũ Tăng Thống nhân ngày Lễ Chung thất của Ngài thật vô cùng cảm động.

“ Hình hài xưa đã cháy,

“ Còn lại bát tro tàn,

“ Với uy nghiêm Đạo Thống,

“ Xin nguyện giữ Cương Duy. (4)

Hòa thượng Xử lý Thường vụ Viên Tăng Thống nhân vì nội tạng bất an nên tạm thời [i]Ngài phải tịnh dưỡng tại Thị Ngạn Am; do vậy trong các buổi lễ về Tang sự cũng như Chung thất của Đức Cố Đệ Ngũ Tăng Thống thì Ngài đều không chủ trì được, và Ngài đã yêu cầu Hòa thượng Thích Nguyên Lý hiệp trợ trong việc bảo trì Tổ ấn (con dấu Viện Tăng Thống), và khâm tuân Giáo chỉ của Đức Cố Đệ Ngũ Tăng Thống về các Phật sự thường nhật.

Người viết xin chấp đôi tay nguyện cầu chư Tôn đức Giáo phẩm và đồng bào Phật tử trong và ngoài nước chấp hành Tổ giáo như là một biểu lộ lòng thành kính tưởng niệm ân đức của Đức Cố Đệ Ngũ Tăng Thống đã hy hiến cả cuộc đời của Ngài cho tự do, dân chủ, và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam.


Nam Mô A Di Đà Phật

California, Phật lịch 2563, ngày 20/4/2020

Nguyên Toàn Trần Việt Long


(1) Giáo chỉ số 19-VTT/TT/GC ngày 12-5-2019 (xem bản này)



 


***

ht thich quang do
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6885)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 732)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33675)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4666)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4634)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4597)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4554)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4875)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4600)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7544)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567