Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I paid homage to Most Venerable Thich Quang Do, The Fifth Patriarch of The Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV

25/02/202016:49(Xem: 5658)
I paid homage to Most Venerable Thich Quang Do, The Fifth Patriarch of The Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV
 I paid homage to Most Venerable Thich Quang Do, The Fifth Patriarch of The Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV


y dan visit ht quang do

Y Dan paid homage to his Patriach Thich Quang Do in June/2016
at Thanh Minh Monastery where he has been permanently detained

Most Venerable Thich Quang Do, The Fifth Patriarch of The Unified Buddhist Church of Vietnam has been detained in Thanh Minh Monastery with permanent control and surveillance of the secret services since his release in 1998 after he had spent eight years in prison for activities calling for religious freedom and then continuing his activities to restore the Unified Buddhist Church of Vietnam (UBCV). UBCV is a branch of Buddhist Church formed in 1963 but banned for its refusal to the union with The Buddhist Church of Vietnam installed by the government of Vietnam in 1981.

Visit1

Very admiring his courage and leadership, just one day prior to my flight back to Canada on a 11 day trip back to Vietnam in June 2016, I decided to pay a visit to Thanh Minh Monastery at 90 Tran Huy Lieu street, Saigon, to visit his Patriarch. The purpose of my visit was to find how his health and living condition was during his detainment.

I arrived there by a taxi cab around noon time in an extreme hot and humid day but the ironed gate was locked. The guards in uniform told me to come back after 2PM when the Monastery was open again. I came across the street to a restaurant nearby for lunch and waited there until the time to come. As I came back, there were several guys, some dressed in civilian clothes, some in uniform, and one in dark brown monk robe introduced himself as disciple of his Patriarch, all sitting inside the checkpoint hut. I knew they were all government secret agents including his disciple, guarding there 24/7 to monitor visitors and control closely his Patriarch’s daily activities. One of them after finished making a phone call on his cell asked me to wait near another solid ironed gate inside. I noticed it was locked with a very heavy and bulky one in the front of the staircase leading to the second floor where his Patriarch ‘s living quarter is.

Cửa sắt và ổ khóa ngoài (1)

Cửa sasct và ổ khóa ngoài giam cầm HT Quảng độ bên trong

DSCN5168

DSCN5169

Locked ironed gate in front of  staircase  leading to second floor where his Patriarch ‘s living quarter is

Hình 3- Sân thượng với tấm lưới sắt

Closed fenced room with a chair for his Patriarch to sit mediation

hình 2 -Sân thượng với những tấm lưới sắt

His living area is closed fenced with no emergency exit or fire escape

In an approximation of 15-20 minutes, an old lady in late of sixty years old, slowly came down to the gate with a long heavy chain with many keys. It took her at least several minutes to find a right key for the lock. She was unlocking the gate in a very cautious gesture. As we approached to the second floor, she asked me to wait in a small room with couple wooden chairs and benches then dashed away.

Appeared at the door then saluted to me in a very humble and polite manner was his Patriarch, the person I ever dreamed to have an opportunity to see in person, a very well known symbol among our Vietnamese Buddhist community as a pine root standing still and upright against fierce wind . He used to look very healthy, active, alert person before his imprisonment. But over only few years enduring hash condition and poor treatment in prisons, his health obviously became deteriorated very quickly. At the age of 87 years old then, he looked very skinny, frail in a monk robe made with mosquito net like cheap cloth.

Answering to my first question about his being, he said that he was not allowed to preach Dharma or conduct ceremonies in big traditional Buddhist events. He was not allowed to step outside of Thanh Minh Monastery unless he had to go to the doctor office when he was always accompanied by secret agents on government vehicles. He had no phone, no internet, no newspapers/magazines, no radio and no television. His diabetes was very severe and received no or very limited help from other Buddhist followers. His living space on the second floor was isolated from the outside world with barbed wires, ironed fences, ironed gates, secured locks and heavy security forces. There were no safety means such as emergency escape to protect his life in the event of a hazardous fire or accident. He added he could only still survive until now simply thanks to the Buddha’s blessing, nothing else. I asked if any government of other countries or The United Nations intervened to help him, he simply smiled sarcastically: “They all were aware of us having no freedom of religion in Vietnam and myself being detained permanently. Some of them came to visit us here sometimes but have not done enough to put pressure upon this government to force them to improve it or abide by the laws in human rights which they signed with the United Nations and other international organizations. Recently, it was even getting worse. Perhaps they did not comprehend how cunning and trickery this government was. Other countries and The United Nations were very easily deceived upon the false reports from Vietnam”.

I shed tears in my eyes learning his condition was even much worse than I could have imagined. I left Thanh Minh Monastery in a deeply sinking heart and promised myself to share this story to the world. Hopefully, The United Nations and government of foreign countries would pay more attention to his lengthy detainment and demand his immediate unconditional release soon to his freedom from Vietnamese communist regime.



Chan Dung HT Thich Quang Do

 



Đức Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, đã xã báo thân, thu thần thị tịch đi về cỏi Phật. Để tưởng nhớ uy đức và công hạnh hy hiến đời mình trong chốn lao tù CS, đấu tranh cho tự do, dân chủ, độc lập nước nhà, tự do tôn giáo, và nhân quyền cho Việt Nam, xin mạn phép được đăng lại một bài viết bằng tiếng Anh về một chuyến viếng thăm và đãnh lễ Ngài tại Thanh Minh Thiền Viện vào tháng 6/2016. Bài viết này đã trao tận tay cho vị Giám đốc Ủy Hội Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ (United Sates Commision on International Religiuos Freedom, https://www.facebook.com/USCIRF/ ) vào dịp Vietnam Advocacy Date tại Tòa Bạch Ốc vào tháng 7/2016 để tường trình hòan cảnh bị giam cầm của Ngài vào lúc đó.
Khi ấy Bà Erin D. Singshinsuk, Executive Director, đã hứa khả sẽ can thiệp với Nhà Cầm Quyền CSVN để thả tự do cho 2 người 1) Đức Tăng Thống và 2) Mẹ Nấm tức Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.
Trường hợp thứ 1) về Ngài Quảng Độ, để chứng minh với CP Hoa Kỳ, Việt Nam đã trả tự do cho Ngài Quảng Độ và Ngài không còn bị quản thúc ở Thanh Minh Thiền Viện, nhà cầm quyền CSVN lưu manh cho Công An trục xuất Ngài ra khỏi Thanh Minh Thiền Viện vào ngày 5 tháng 10, 2018 và ép Ngài phải ra Vũ Đòai, Thái Bình, quê của Ngài và là nơi mà Ngài chứng kiến CS đã bắn Sư Phụ của Ngài trước mặt khi Ngài còn là chú tiểu. Sư thúc ép này đặt Ngài dưới sự giám sát chặt chẽ của người cháu ruột là Đăng Phúc Định, một tên thiếu tá Công An CSVN, như một hình thức an trí, giam lỏng http://www.viettin.de/node/541. Nhưng ngay sau đó vào Ngày 17/11/2018, Ngài đã tìm cách trở lại Sài Gòn và xin tá túc tại chùa Từ Hiếu Đường 9, Quận 8, Sài Gòn, cho đền ngày viên tịch.
Trường hơp thứ 2) Đúng như lời hứa của Bà Erin D. Singshinsuk, Mẹ Nấm tức bà Nguyễn Ngọc Như Qùynh đã đựoc thả tự do và cho đi sang tỵ nạn tại Hoa Kỳ cùng gia đình vào ngày 17/10/2018 https://www.bbc.com/vietnamese/45898303.
Thành quả này là do người Việt Hải Ngoại khắp nơi liên tục đấu tranh và lên tiếng trước công luận thế giới về sự cai trị độc tài của bạo quyền CSVN, nhưng công lớn nhất phải cần nhắc đến là do tổ chức SOS của TS Nguyễn Đình Thắng vào tháng 7 hàng năm Advocacy Day for Vietnam tại White House đã can thiệp cho nhiểu nhà đấu tranh dân chủ tại Việt Nam được tự do và buộc nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng tự do, nhân quyền như theo bản Tuyên Ngôn Quốc Tề Nhân Quyền của LHQ và tuân thủ những công ước khác mà họ đã ký kết với các tổ chức quốc tế.
Trân trọng kính chào & cám ơn
Ý Dân 
 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6879)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 683)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33638)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4660)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4625)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4591)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4545)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4862)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4592)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7531)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567