Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngài Bình An đã bình an

18/04/202018:39(Xem: 4624)
Ngài Bình An đã bình an


ht dong chon 5

Kính lạy Giác linh Hòa thượng,

Ông bạn Giác Hiệp điện thoại mời đóng góp vài lời cho tập Kỷ yếu tang lễ ngài. Thật tình mà nói: hơi do dự một chút và hơi hoang mang một xíu (hơi hơi thôi). Hoang mang vì bản thân con không biết viết như thế nào cho thực, cho bình dị như cuộc sống của ngài. Hai thế hệ cách nhau 20 tuổi và hai chùa cách nhau 20km, không thể gọi gần gũi mà cũng không phải gọi xa lạ được. Nhưng có một yếu tố rất quan trọng có thể xóa tan được thời gian tâm lý và không gian vật lý. Đó là Hòa thượng và thầy Giáo thọ của con (Hòa thượng Đồng Hạnh 1943-2003) là pháp lữ thân thiết từ lúc còn là Tăng sinh của Phật học viện Phước Huệ (1970-1973), tổ đình Thập Tháp. Đến khi ra hành đạo hai ngài vẫn thường xuyên thăm hỏi luận bàn Phật pháp. Hai ngài có nhân duyên rất đặc biệt và ấn tượng khiến lớp Tăng sinh thời đó không thể không nhớ. Hòa thượng thế danh là Bảy, thầy Giáo thọ của con là Tám. Đáng nhớ hơn nữa là cuộc đời của hai ngài rất xứng đáng với câu:

Thiền tâm hạo khiết minh như nguyệt,
Giới hạnh tinh nghiêm tịnh nhược sương”
.

Hai ngài cùng là Giáo thọ Trường Phật học Nguyên Thiều, Bình định. Ngài chuyên dạy Luật (từ 1992-2015), rất nghiêm túc, rất kỷ cương nhưng rất bi mẫn. Thầy giáo thọ con dạy Duy thức và Hán cổ (1992-2002), rất hòa đồng, rất thông cảm, đôi khi pha chút khôi hài nhưng không thiếu chất mô phạm. Tăng ni sinh nào “lạng quạng”, là một giáo thọ môn Luật, ngài cứ “thẳng mực tàu (mặc kệ) đau lòng gỗ”, nhưng khi đến tai ngài giáo thọ Duy thức thì tội nặng hóa nhẹ, tội nhẹ hóa nhẹ hơn.

Con là bạn đồng học, đồng thế hệ của các đệ tử của ngài, như TT. Thích Giác Hiệp, TT. Thích Giác Khánh (đã viên tịch), TT. Thích Giác Quảng, v.v…cho nên không biết viết với tâm trạng nào, tri ân? ca tụng? tình nghĩa?

thich giac khanh

TT. Thích Nhuận An và TT. Thích Giác Khánh, _chụp tại Hồ Con Rùa (năm 1990),
ngày mới vô Sài Gòn (sau lưng là xe đạp của Giác Khánh)



Thưa chư vị môn đồ,

            Những tâm trạng đó phải được viết với văn phong bay bổng, trau chuốt hoa mỹ có khi pha chút ảo tưởng. Ngài vốn không thích chữ nghĩa rườm rà, hoa hòe hoa soái, trống rỗng. Vả lại bản thân tôi nghi ngờ tính khả thi của tập Kỷ yếu. Trước đây, khi Hòa thượng Thích Quảng Bửu, đệ nhị trú trì Tu viện Nguyên Thiều, tịch (2016), TT. Thích Đồng Trí (TT. Thích Minh Tuệ), là môn đồ; TT. Thích Đồng Thành (hiệu trưởng trường Nguyên Thiều) đồng ký tên chung trong thư mời viết bài cho Kỷ yếu tang lễ của Hòa thượng Thích Quảng Bửu. Lúc đó 2 vị nói rằng sẽ in xong và phát trong lễ Tiểu tường; sau đó khất lại đến Đại tường, nhưng đến nay (2020) Kỷ yếu vẫn chưa  xong. Không biết 2 vị đó có còn muốn tiếp tục hay đã bỏ cuộc rồi. Tôi vẫn ngày đêm trông chờ cho đến khi nào có tâm thư tuyên bố rằng không thực hiện nổi. Có nói cho TT. Thích Giác Hiệp trường hợp đó và Giác Hiệp khẳng định chắc chắn sẽ thực hiện được. TT. Thích Giác Hiệp nói qua điện thoại “Đóng góp vài cảm niệm và kỷ niệm về Hòa thượng”. Như vậy 2 tâm trạng hoang mang và do dự được giải tỏa.

Từ lúc còn là Tăng sinh Phật học viện Phước Huệ tới khi là Giáo thọ, là Tôn chứng và là Tam sư trong các Đại giới đàn, ngài thường mở đầu và kết thúc câu chuyện bằng hai từ “chán đời”. Hơn một tuần trước khi ngài tịch, tôi có thăm. Đang trò chuyện, ngài nhìn ra cổng tam quan, nói “tội nghiệp, muốn tu hành niệm Phật mà cũng không được, chán đời”. Thì ra hôm đó đúng ngày niệm Phật hằng tháng của đạo tràng chùa Bình An nhưng gặp ngoại duyên nên không tổ chức được. Các Phật tử vừa vô lại buồn bã ra về. Nói câu đó, hai mắt ươn ướt, vẻ buồn thương hiện rõ trên mặt ngài. Khi câu chuyện đến nội dung về hành trạng của chư vị Hòa thượng trong quá khứ. Mỗi ngài một lối sống, có vị ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc, có vị hành đạo tại thị thành náo nhiệt, cũng có những vị thực hành nông thiền dưới hình thức một ông thầy nông dân lam lũ. Ngoài việc hành trì hai thời công phu với chuông chiều mõ sớm, các ngài còn phải cần cù chấp tác với thửa ruộng mảnh vườn của chùa để tự trang trải cuộc sống quanh năm. Thành quả lao động ấy không những để ăn mà còn đem bán để mua nhang đèn hoa quả cúng Phật (nếu có dư). Vì lẽ hạt cơm miếng vải của đàn việt rất nặng, nếu tu hành lơ là thì “tín thí nan tiêu”. Ăn thì tương dưa đạm bạt, mặc thì vải vóc thô sơ. Y phục thì vá chằm vá đụm, dùng cho đến khi nào không thể  vá được nữa mới bỏ, nhưng lại cắt những chỗ còn tốt để lại, hoặc để lau nhà, hoặc để chà chân, hoặc dùng lau bếp, v.v… Các ngài ăn mặc đơn sơ tiết kiệm đến mức lôi thôi. Có khách phương xa đến chùa cứ tưởng vị phương trượng tổ đình là bác Phật tử làm công quả. Tuy nhiên, đạo phong các ngài luôn tỏa ấm với phạm hạnh tinh nghiêm, với định lực kiên cố, không bị danh lợi ràng buộc, không bị chức quyền lôi cuốn. Âm thầm lặng lẽ, không phô trương, không quảng cáo, các ngài đã nuôi dạy được nhiều thế hệ những bậc thầy mô phạm cho sơn môn giáo hội. Đang kể, bỗng ngài ngưng lại, mắt nhìn xa xăm ra vẻ ưu tư cho hiện tại và tương lai. Có một lần tôi hỏi ngài: “Tại sao thầy nói chán đời luôn vậy?” Ngài đáp: “Tui nói chán đời nhưng tui không chán đời mà là tui chán cái sự đời”. Cái kiểu trả lời này giống như Đức Phật dạy tôn giả Tu Bồ Đề: “Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp”.

Tôi nghe ngài trả lời mà thầm kính phục trong lòng, nghĩ rằng: thầy này cũng thâm thúy thật, chỉ với hai từ chán đời mà đã nói lên được mô thức của giáo lý Bát-nhã: …tức phithị danh… Rõ ràng ngài không chán đời. Qua hành trạng, ngài cũng nuôi dạy đồ chúng, giáo hóa tín đồ, xây chùa đúc chuông, làm bao nhiêu phước đức.

Đã thăm và nói chuyện cùng ngài hơn một tiếng đồng hồ, tôi xin được ra về. Ngài bảo: “ở lại nói chuyện cho dui chứ dìa làm gì, chán đời, thầy dìa rồi, một mình tui, buồn”. Tôi lại ngồi xuống, đến lần thứ ba, ngài im lặng, tôi mới ra về. Mới quay lưng, ngài gọi lại nói: “Khi ngài Bửu Quang tịch (1995), tui làm kinh sư,  cúng đủ 7 thất, nay mai tui chết, thầy nhớ xuống cúng tui nghen”. Tôi dạ và ngài nhìn tôi mỉm cười nhưng đượm vẻ buồn sâu lắng, như sắp đi xa. Đây là lần chót tôi thăm và nói chuyện lâu như vậy. Trước đấy, cuối năm 2019, tôi có tới thăm ngài. Vừa chào và hỏi thăm vài câu, ra về liền, vì tôi thấy thầy Giác Thiện mới từ Mỹ về thăm. Tôi nhường thời gian lại cho người ở xa.

Thông thường, trong sơn môn, thường xưng hô các vị Hòa thượng, Thượng tọa bằng tên chùa, ít khi gọi thẳng pháp danh hay pháp tự của các ngài, nếu có, chỉ gọi pháp hiệu hoặc ngoại hiệu. Lúc sinh tiền, chư tôn đức, thế hệ 5 – 6X, gọi ngài là thầy Bình An; thế hệ 8 – 9X về sau gọi là ngài Bình An. Đặc biệt thế hệ 3X và 4X gọi ngài là “thầy chán đời”, hoặc gọi “anh + tên đời + chán đời”. Trong tỉnh dường như chư Tăng ai cũng biết cái ngoại hiệu thân mật này. Mỗi khi nghe, ngài hoan hỷ và thích lắm. Ai cũng biết, nhưng không phải ai cũng gọi được đâu, nhất là các thế hệ X lớn dần.

Cuộc đời ngài như đất, mùa xuân thì ẩm ướt để nuôi hoa cỏ, mùa đông thì mềm lún và mùa hạ thì khô cứng. Đối với chư tôn đức, ngài cung kính mềm mỏng như đất mùa đông; với các học trò đệ tử như đất mùa xuân và đối với danh lợi quyền uy như đất mùa hạ, không cho chúng đâm chồi nảy lá. Tính chất của đất không những có thể nuôi dưỡng mà còn có thể nâng đỡ nữa: “Địa, ngôn kiên hậu quảng hàm tàng” (đất dày chắc mới bình an được). Ngài không thích tôn xưng bằng những mỹ hiệu như: tòng lâm thạch trụ, pháp nhũ triêm ân, bóng mát đại thọ, v.v… Vả lại, đất là 1 trong 4 nguyên tố cấu thành vũ trụ vật chất thiên hình vạn trạng, theo quy trình: sanh, trụ, dị, diệt, nhưng không mất hẳn, chỉ biến dạng.

Chư vị, hôm nay Bổn sư các vị đã viên tịch, chứ không phải mất. Tương lai, trong môn đồ hoặc trong sơn môn, sẽ có những vị tính tình thuần hậu, chân chất bình dị, đạo hạnh trang nghiêm, có thể là ở “thử thế giới hoặc tha thế giới, thử quốc độ hay tha quốc độ”. Đó là tinh anh của thầy các vị tái hiện Ta-bà, tạo nên nhiều pháp khí quý báu cho tòng lâm giáo hội. Một ngài Bình An ra đi để thổi hồn thành nhiều thầy Bình An nữa, há không mừng cho đạo pháp lắm ru? Tôi chắc các vị còn nhớ Đức Phật nói: “Như lai bất niết-bàn, bán nguyệt bán nguyệt lai” (Như lai chưa hề niết-bàn nếu chư tăng duy trì tụng giới mỗi nửa tháng). Cũng như trong hiện tại hay tương lai, những vị nào hành trì nghiêm mật, giới hạnh châu viên, há chẳng phải là hiện thân của Hòa thượng Giác Ngộ (chùa Bửu Thắng, Gia lai) hay Hòa thượng Đồng Thiện (đệ nhị trú trì tu viện Nguyên Thiều) ư? Vị nào công phu miên mật, cần khổ giản đơn, bình dị thật thà, lại chẳng phải là hóa thân của Hòa thượng Quảng Bửu sao? Vẫn biết rằng “sanh tử tuy là huyễn, (nhưng) ly biệt cũng đau lòng” (chỉ được đau buồn một chút thôi nhé). Tôi biết môn đồ các vị bối rối trong thời gian tang lễ, nên quên mất rằng trong các tấm trướng phúng điếu, chư tôn đức có nhắc nào là: Tịch diệt phi diệt, Tịch diệt vi lạc, Hội nhập ta bà v.v… Nếu đã là …(phi diệt), là …(vi lạc) thì tất cả phải vui mừng sung sướng mới đúng. Mô Phật.

TT. Thích Nhuận An

Tổ đình Hưng Long

 An Nhơn, Bình Định





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 14952)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 8826)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20693)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6344)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8714)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5797)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19390)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9683)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6129)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6946)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]