Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con Đã Thấy Pháp

18/04/202018:38(Xem: 2903)
Con Đã Thấy Pháp


ht dong chon 4


   Thầy ơi !

     Có lời dạy an nhiên nghe riết thành quen, đến khi Thầy đi con mới ngộ ra bài học lớn.

     Ngày còn ở quê, cứ lâu lâu con ghé thăm Thầy. Hồi đó sân vườn còn thấp so với bậc thềm, tam cấp hai bên hông chùa chưa kéo dài suốt như bây giờ, con leo lên bậc thềm cao đứng trước bậc cửa chắp tay, khom người tập tành:

   – A Di Đà Phật, Thưa Thầy có khỏe không?

     Thầy cười hiền hậu bảo:

 – Chết cho rồi.

Rồi cười thành tiếng, ân cần:

   – Rót nước uống đi con.

    Trăm lần như một.

    Trăm lần như một, con nhận được một tình thương gần gũi rất đặc biệt từ Thầy. Trăm lần như một, nhưng cứ lần hồi vô tâm quá lâu để năm tháng trôi qua cho đến khi  thảng thốt  nhận ra pháp thậm thâm tâm truyền thì Thầy đã không còn trụ thế.

     Ngày nhận được tin Thầy đi, hốt nhiên con nghĩ về Sự chết, lời Thầy sầm sập đổ xuống tâm con. Nhớ về lời Thầy dạy,  khởi ngộ về cái chết thì Thầy đã muôn trùng để con loay hoay giữa lý và sự, giữa thể và chất, giữa hữu và vô … mà không biết nương tựa vào đâu.

     Hốt hoảng với sự ra đi của Thầy con niệm soi về sự chết trong tâm. Hóa ra lâu nay những gì con biết về sự chết và nói ra rả về nó để chứng tỏ mình, trong phút chốc chỉ đong đầy vẻn vẹn  nụ cười vi tiếu. Con đã thở vào một hơi dài hơn mấy chục năm để mới thở ra hiểu được sự sâu thẳm trong lời Thầy truyền cho con,  ngay trong khoảnh khắc nhận được tin Thầy viên tịch.

    Quá nửa cuộc đời bạt gió, bon chen thế sự con chỉ luôn nghĩ về cõi sống, lao theo kiếp sống mong  thỏa chí tang bồng, cho thỏa lòng háo thắng. Rốt cục chỉ là trơ trọi giữa khoảng không, tâm úp mở thấp cao, lôi thôi nhếch nhác  thế nào là vui là khổ. Muốn nghe lời Thầy về lại chùa xưa tác nghiệp chăn trâu, nhưng nghiệp cõi nhân gian tựa hồ thiên xích lãng, hai chữ Bình An giờ ai dạy cho con. Bình an còn, nhưng giờ nương tựa vào đâu để được Bình an.

    Ngày xưa – con thường  nói như vậy, để nhớ về một quãng đời hữu duyên được sống gần Thầy. Ngày xưa Chùa mình nghèo lắm, gạo ăn chẳng lúc nào giáp hạt, thức ăn rau muối thường ngày, tương chao đôi khi còn hiếm. Bên cạnh giếng có mấy cây Dừa cho trái, thi thoảng lấy cơm dừa khô già vùi vào khạp muối rồi đem ra nướng trên bếp củi, bếp rơm. Cái ăn đã khó mà việc xin phép lưu trú của các Thầy, các chú cũng gặp khó khăn. Thế  nhưng sự học ở Chùa mình chưa bao giờ đứt đoạn. Việc học tập ở chùa như một dòng sông miệt mài chảy, cần mẫn chỉnh chu với nguồn khơi không dứt của Thầy.

  Có những năm các Thầy các Chú tựu về học tập, sáng ra một nồi cháo lớn với muối mà cũng sạch nhẵn nồi. Chúng con vững tâm nương tựa vào Thầy nên cái khó và cái khổ chưa bao giờ làm tắt niềm vui của chúng con trong  những giờ học tập, công phu với những đêm tối đen hay lung linh trăng sáng mà đường cước đường quyền sạt sạt trên nền đất sân chùa. Chúng con tuổi trẻ cũng lắm trò, nhưng Thầy vừa nghiêm lại vừa bao dung nên chúng con có thọ trách phạt cũng bằng tâm hoan hỉ, ký ân. Dưới cội Bồ đề chở che của Thầy, chúng con cứ hồn nhiên trưởng thành bằng sự thấm đẫm  tinh thần  cầu học để tu sửa mình, để tin và thấy đích đến của mình trên con đường tăm tắp xa.

    Con nhớ những ngày chỉ có Thầy và con ở Chùa, Thầy dạy con cách thỉnh Đại hồng chung   trên lầu chuông  để pháp âm không bao giờ đứt quãng, mãi giữ  yên bình trên một miền quê.  Nhờ phước duyên ấy mà con biết giữ cho mình một cuộc sống thiện lương trước những hỉ nộ tham sân trong từng bước đi giữa cõi đời này.

    Khi báo tin  Cha con đi, Thầy bùi ngùi: “ Cha con là người chỉ cần nói là Thầy hiểu, và Thầy mới nói là cha con hiểu.” Con biết Thầy dành tình thương cho con đến mức nào.

    Cha con đã dạy  con thành người tử tế, phải biết sống thế nào cho phải Đạo, cho phải lẽ nên mỗi hành vi trong đời sống của con luôn có bóng Cha và  lòng chưa bao giờ thôi khóc.

    Thầy ơi! Thầy dạy cho con nghiệm thông về sự chết để con hiểu lẽ vô thường, biết lấy cái vô thường năng đoạn vô thường, thế mà tâm lệ con chắc chẳng thôi rưng rưng trong quãng vô thường còn lại khi nhớ đến Thầy .

    Thầy ơi! ngày thầy đi con không về được để quỳ dâng nén hương thành tâm hành lễ. Nơi chốn xa, lòng rưng rưng con chỉ biết chắp tay hướng vào không trung đảnh lễ Thầy trong giờ phút Nhật – Nguyệt chẳng còn phân chia.

     Hữu duyên hạnh ngộ lời dạy của Thầy mãi miết  bao nhiêu năm,  đến khi nghe tin Thầy viên tịch con mới hốt nhiên ngộ ra. Trong Vô lượng Pháp con đã tìm được một Pháp tu tập là nhớ nghĩ về Thầy. Nhớ nghĩ về Thầy là nhớ nghĩ lời Thầy dạy, là nhớ nghĩ và sống theo đức hạnh tu tập của Thầy, như vậy cũng chính là đang tu theo Pháp Phật, là thấy Phật.

     Phải chăng đây là dấu tích cho con tìm Thầy khi “chết cho rồi”, dầu con là đệ tử chưa làm lễ Quy y, chưa có Pháp danh; nhưng con biết niệm “ Nam mô A Di Đà Phật” như Thầy đã dạy.

Nam mô A Di Đà Phật.

 Tháng 03 năm 2020

 Kính Thầy

 Con: Nguyễn Ngọc Hải

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 6560)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 4569)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4508)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4440)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10366)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5183)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6003)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6549)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7846)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9043)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567