Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoài Niệm Tôn Sư (bài của đệ tử Thích Giác Hiệp viết về Sư Phụ, HT Thích Đồng Chơn)

09/04/202015:54(Xem: 3530)
Hoài Niệm Tôn Sư (bài của đệ tử Thích Giác Hiệp viết về Sư Phụ, HT Thích Đồng Chơn)


ht thich dong chon-16Chùa Bình An khi chưa được trùng tu

ht thich dong chon-18
(từ trái sang: Thầy Giám, Hòa thượng Tôn sư, Đệ tử Thích Giác Hiệp,
Đệ tử Thích Giác Quảng, HT.T. Hạnh Hòa, TT.T. Đồng Văn, hàng trước: chú Thành)
ht thich dong chon-17
Đệ tử Thích Giác Hiệp

  1. Ngày về

Chỉ trong vòng 5 tiếng con nhận được 2 tin không lành: Hòa thượng Tôn sư nhập viện, rồi viên tịch. Lúc 5 giờ sáng ngày 22 tháng 03 năm 2020, Tôn sư nhập viện và đến lúc 10 giờ sáng cùng ngày Tôn sư đã hạnh viên, quả mãn, thâu thần thị tịch. Không kịp suy nghĩ, không kịp chuẩn bị gì, con vội vàng về lại chùa xưa để lo Tang Lễ Tôn Sư. Suốt đường về, con tự hỏi có thật Tôn sư đã viên tịch? Đó ắt hẳn là lòng con quá thương tiếc muốn níu kéo lại phút giây để kịp về diện kiến Tôn Sư lần nữa? Cuộc thế là vô thường, dù là Người đã hiểu rõ và thuyết giảng cho con về đạo lý này nhưng cơn vô thường đến quá bất ngờ nên con không tránh được cảm xúc chạnh lòng, trống vắng. Từ đây những lúc về lại chùa xưa con sẽ không còn thấy Tôn sư nữa. Hình bóng Tôn sư ngồi nhìn ra cửa. Âm thanh quen thuộc hỏi thăm khi con vừa về đến chùa: – Đi đường mệt không con, – Ăn gì chưa con? Làm sao con tìm lại được hình bóng và âm thanh quen thuộc thân thương đó nữa!

Nay Tang Lễ vừa xong, con có thời gian ngồi bên bảo tháp của Tôn sư, bao nhiêu hình ảnh, ký niệm và hạnh nguyện của Ngài hiện về trong tâm trí con.

  1. Giáo dưỡng
    • Nền tảng căn bản

Những ký ức về chuỗi ngày thơ ấu hiện về. Thế mà đã gần 40 năm kể từ ngày con nương mái chùa Bình An (1982), nương bóng Tôn sư học tu theo hạnh giải thoát. Con đã được Tôn sư và các huynh tham học tại chùa hướng dẫn học từ những thời khóa tụng niệm căn bản cho đến các bộ Kinh, Luật nâng cao. Tôn sư ngồi dạy miệt mài từng câu từng chữ, giảng giải nghĩa lý. Sau giờ học huynh đệ chỉ cho nhau những chỗ nào chưa được rõ nghĩa. Rồi đủ duyên con vào Nam nương Tổ đình Vĩnh Nghiêm, nương đức của chư Tôn đức, Hòa thượng Thích Thanh Kiểm tu học, trải qua các lớp Phật học trong nước, rồi ngoài nước. Tạm xong việc học con trở về tham gia công tác Phật sự, giảng dạy mong đáp đền phần nào ơn giáo dưỡng của Tôn sư và chư Tôn đức. Tất cả những gì trải qua gần 40 năm như tập phim chiếu chậm, rõ nét trong đầu con.

Diễn Tổ dạy: “Tùng lâm là nơi hun đúc Thánh Hiền, nơi dưỡng dục tài khí, nơi phát xuất sự giáo hóa”. (演祖曰。所謂叢林者。陶鑄聖凡養育才器之地。教化之所從出。(Đại 48, 1018c, Thiền Lâm Bảo Huấn, HT. Thích Thanh Kiểm dịch).

Tôn sư  thực hành hạnh nguyện giáo hóa, “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, đào tạo Tăng tài cho giáo hội. Chùa Bình An trở thành nơi nương tựa tâm linh và tham học Phật pháp của bao thế hệ. Mỗi thế hệ có những kỷ niệm về chùa Bình An và khắc ghi ân đức của Tôn sư…Những bài học Ngài dạy về cuộc sống thực tiễn, để rồi có dịp chư huynh đệ gặp lại hay qua điện thoại kể cho nhau nghe, vừa ôn lại, vừa nhắc nhau tinh tấn hành theo hạnh Tôn sư. Từ khi chùa Bình An còn đơn sơ cho đến khi được trùng tu tôn tạo trang nghiêm, nơi đây vẫn mãi là vườn hoa Đạo Pháp, Tôn Sư ngày đêm tưới tẩm để có hoa thơm trái ngọt cho Đạo, cho Đời.

Sau năm 1975, trước khi hệ thống Trường cơ bản Phật học (nay là Trung cấp Phật học) được hình thành và phát triển, chùa Bình An là một trong những chùa trong tỉnh Bình Định truyền giảng lời Phật dạy theo hình thức “gia giáo”. Lớp học có khi 1 vị, 2 vị, 4 vị, v.v… trình độ cũng khác nhau. Cho dù bao nhiêu vị, trình độ thế nào đi nữa Tôn sư vẫn kiên trì giảng dạy, giải thích từng câu từng chữ cho đến khi những vị Học viên ấy thấu đạt nghĩa lý.

Đến khi tỉnh Bình Định mở Trường Phật học Nguyên Thiều, ngoài lớp “gia giáo” tại chùa, Tôn sư còn đến Trường với chức năng của vị Giáo Thọ Sư, truyền trao kiến thức cho các vị Tăng ni sinh từ khóa I đến khóa VII. Thời kỳ đầu,  sáng chiều, Tôn Sư phải vượt qua các dốc Tháp cao, đường quê gập ghềnh với chiếc xe đạp cũ. Hình bóng Tôn sư, với chiếc áo nâu phai màu không ngại đường xa, mệt mỏi, nắng mưa với chiếc xe đạp cũ, có mặt giảng dạy tại các đạo tràng là hình bóng quen thuộc với chư Tăng ni tỉnh nhà.

  • Thân giáo

Lời dạy được thể hiện qua lối sống của người dạy sẽ giúp người học thấu triệt hơn, Tôn sư sống với chánh Pháp là Thân giáo, là những bài học không lời không thể phai mờ trong tâm trí của bao thế hệ học trò.

Thời khóa tu tập đầu tiên trong ngày ở chùa Bình An khởi sự rất sớm từ 3 giờ sáng và thời công phu cuối ngày là lúc 20 giờ. Lúc chư Tăng tụng kinh thì Tôn sư thỉnh chuông, sau khi chúng đã kết thúc khóa tụng Tôn sư cũng vừa dứt chuông và xuống tiếp tục hành trì riêng. Tôn sư không bỏ một thời hành trì nào cho dù sắc thân đôi khi gặp phải bệnh. Có Phật sự nơi đâu Tôn sư cũng mong về để hành trì. Thật sự khi mới vào chùa còn là một chú tiểu nhỏ làm gì hiểu được những câu đối tiềm ẩn ý nghĩa sâu xa, như: Tiếng chuông, trống mai chiều thức tỉnh người chạy theo danh lợi / Lời kinh kệ sớm tối chuyển hóa  kẻ si mê….”

(Mộ cổ thần chung cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách

Triêu kinh vãn kệ hoán hồi khổ hải mộng mê nhân

暮 鼓 晨  鍾   警 醒 愛 河 名 利 客 朝  經  晚 偈 換 回 苦  海  夢  迷 人 ).

Khi hiểu cặp đối này mới biết được tại sao Tôn sư không bỏ một thời thỉnh chuông nào.

     Những lời dạy và công phu tu tập của Tôn sư là tấm gương cho đồ chúng học theo.

Chúng học được rất nhiều từ Tôn sư qua cách sống, sinh hoạt hằng ngày, không phải chỉ lúc ngồi vào bàn học. Chúng con còn có thể học được qua những dịp như đi tham dự các ngày húy kỵ Tổ sư ở những Tổ đình trong tỉnh. Tôn sư và các huynh chở chúng con đi đến dự, trên đường đi hoặc lúc về Tôn sư thường hay kể công hạnh chư Tổ để cho kiến thức chúng con thêm rộng mở….

  1. Đơn giản bình dị

Những năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, lương thực để an tâm sinh hoạt tu tập của  chùa Bình An tùy thuộc vào mảnh ruộng lúa gần chùa, chư Tăng tự canh tác. Cuộc sống quanh năm hầu như không ai nghĩ đến khái niệm tiền, mà thật sự cũng không có để nghĩ đến. Có khi chỉ cần hái vài trái dừa có sẵn trong vườn ra chợ đổi lấy dầu, bọt ngọt, rau về cho bữa ăn là đủ. Thầy trò bảo bọc lấy nhau, an bần lạc Đạo là thế.

Bất cứ một khách Tăng hay Phật tử bình dân nào đến Tôn sư vẫn tiếp, ngồi nói những câu chuyện đạo từ đó chỉ ra lẽ sống ở đời. Tôn sư không phân biệt kẻ sang người khó. Đã đến chùa ắt có lý do, thăm hỏi sức khỏe hay cần cầu về hướng dẫn tu tập tâm linh, v.v…

Tính cách của Tôn sư rất bình dị dễ gần. Đây là cái cần có của người học Phật. Gần để giáo hóa tha nhân, gần để tha nhân học hỏi, thân cận mới dễ giáo hóa.

Rất nhiều vị Tôn túc, huynh đệ từng lưu trú, dừng chân ở chùa Bình An đều thưởng thức những bữa cơm đạm bạc, rau dưa, có khi chỉ nồi cơm trắng ăn với dừa ngâm muối đem nướng. Thường các ngày húy kỵ chư vị Tổ sư, chư Tôn đức các chùa trong tỉnh về trước một ngày, ở lại tối khai kinh, sáng hôm sau dự húy kỵ. Sau thời khai kinh, thật ấm tình đạo vị với những chung trà những câu chuyện đạo mà chư Tôn đức bàn luận, chúng con thị giả cũng học được rất nhiều điều. Mỗi vị một phong thái riêng có khi kể lại những chuyện thời chư Tôn đức còn đi học, hay những câu chuyện tại các chùa. Kết thúc là bài học kinh nghiệm trong tu học, đối nhân xử thế hay hiểu rõ thêm về hành trạng của chư Tôn túc tiền bối. Những câu chuyện như vậy ăn sâu vào tâm thức các chú tiểu, nuôi ước nguyện “phát túc siêu phương” và “người đã là đấng trượng phu, Ta há chẳng phải hay sao?”.

Rồi huynh đệ mỗi người một phương, trong nước cũng như ngoài nước. Mỗi vị đều thành tựu sự nghiệp. Có vị một năm đôi lần về thăm Tôn sư có những vị vài năm mới có dịp về, vì hoàn cảnh và công tác Phật sự. Khi nói về Bình An tự nhiên Tâm an bình, quả là chiếc nôi tâm linh Đạo Pháp mãi là nơi chốn đầy mặn mà, ý vị, dễ thương, dễ chịu trong mỗi chúng con.

  1. Truyền năng lượng tích cực

Những lời dạy của Tôn sư  giúp cho bao thế hệ tiến tu, hành đạo, đem chánh pháp truyền dạy khắp nơi. Tôn sư sống đúng lời dạy của Thiền sư Quy Sơn Đại Viên: “Lời nói phải phù hợp với kinh điển, luận bàn phải hợp với  chuẩn mực của người xưa” (Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ 出言須涉於典章。談說乃傍於稽古). Mỗi lần diện kiến Tôn sư các vị có được bài học, tu tập tâm linh, đối nhân xử thế. Những câu nói của Tôn sư là nguồn động lực để cho người diện kiến có được quyết định. Có những vị bế tắc trong cuộc sống, gặp Tôn sư, mọi thắc mắc được hóa giải, mọi bế tắc được khai thông. Có những vị nhờ một câu nói, lời hướng đạo của Tôn sư mà phát tâm tu học, thành tựu sự nghiệp.

Mỗi đệ tử, học trò của Tôn sư có một hạnh nguyện, khả năng riêng, tùy theo đó mà hành đạo, vị nào có khả năng theo con đường học vấn thì tiếp tục học hỏi, nghiên cứu, giảng dạy, vị nào phát tâm ra làm trụ trì phục vụ nhân sinh thì dấn thân.

Với đồ chúng khi đã xong các thời khóa hay chấp tác Tôn sư gọi lại, thầy trò ngồi với nhau. Tôn sư chỉ dạy đường hướng cho mỗi người tương lai phải tu học như thế nào. Lớn lên qua các lớp học, tiếp cận với Thánh điển, lời Phật dạy con càng hiểu rõ hơn về hạnh tu của Tôn sư.

  1. Viên mãn

Không ai nghĩ rằng Tôn sư sớm viên tịch, vì chiều hôm trước khi Tôn sư viên tịch Ngài còn ngồi dạy cho chư Tăng. Hình như biết trước được sắc thân tứ đại đã đến lúc xả bỏ nên mấy năm gần đây, lúc nào chư Tăng hết giờ học ở các Trường Lớp Phật Học, Tôn sư luôn bảo lên để Ngài dạy các bộ như Di Đà Sớ Sao, Nhị Khóa Hiệp Giải, v.v…


Một đời Tôn sư cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và hoằng Pháp. Để có được những kiến thức truyền trao cho hậu thế, Tôn sư đã tham học các bậc danh Tăng. Để thâm nhập nghĩa lý cao siêu của các kinh điển Tôn sư  vừa học, Ngài vừa hành trì nghiêm mật suy tư nghĩa lý công phu, để từ đó đem những gì mình đã học, tu, trải nghiệm truyền trao cho hậu thế. Ngài có đủ 3 việc mà Khổng Tử đã tự vấn: Lặng yên nhớ điều đã học, kiên trì học tập không biết chán, dạy bảo người khác không biết mệt mỏi, ta đã làm được việc nào trong ba việc ấy?” (默而識之,學而不厭,誨人不倦,何有於我哉?Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện, hà hữu ư ngã tai? Khổng Tử).

Tôn sư là một Đạo sư tinh thần, đúng như lời của ngài Gyatso Geshe Kelsang:

“Trong tất cả các phương tiện mà Đức Phật sử dụng để độ sanh, phương cách cao siêu nhất đó là thị hiện người chỉ đường, Đạo sư tinh thần. Thông qua lời dạy, tấm gương sáng của đạo sư, một bậc Đạo sư hướng dẫn tinh thần đáng tin cậy sẽ hướng dẫn người học trò trên con đường tâm linh đến giải thoát và giác ngộ. Nếu chúng ta gặp một vị Đạo sư tâm linh Đại thừa uy tín, thực hành theo lời dạy của vị ấy, chắc chắn chúng ta chứng đạt giác ngộ hoàn toàn.” (Giới Thiệu Phật Giáo: Giải thích đạo lý sống của Phật giáo, Thích Giác Hiệp dịch. Gyatso, Geshe Kelsang. Introduction to Buddhism: An Explanation of the Buddhist Way of Life. New Delhi: New Age Books, 2002).


Nay hóa duyên đã mãn, Tôn sư đã ra đi, nhưng tất cả những kỷ niệm, hình ảnh, lời dạy của Người vẫn sống mãi trong chúng con, Người vẫn mãi hiện hữu trong dòng chảy tâm linh tinh thần bất diệt của bao nhiêu thế hệ chùa Bình An. Huynh Đệ chúng con chỉ còn biết nương tựa vào nhau, ôn lại Giáo huấn của Tôn Sư để tiếp tục tu học và hành Đạo xứng đáng là hàng đệ tử của Người. Chúng con nguyện dấn thân, tiếp tục con đường Tôn sư đã đi, kế thừa Tổ đức, Tông phong vĩnh chấn, Phật Pháp quang huy, góp phần mình cho thế giới này thêm chân thiện mỹ, cho ánh sáng Đạo Pháp ban rải khắp nơi nơi. Nguyện cầu giác linh Tôn sư chúng minh và gia bị cho chúng con hạnh nguyện viên mãn.

NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP TAM THẾ, BÌNH AN TỰ ĐƯỜNG THƯỢNG, thượng ĐỒNG hạ CHƠN, hiệu MINH CHIẾU, tự THÔNG THIỆN Hòa thượng TÔN SƯ GIÁC LINH thùy từ minh chứng.

Quy Nhơn, ngày 27/03/2020

Đệ tử Thích Giác Hiệp kính lễ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 6557)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 4558)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4505)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4437)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10358)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5177)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 5997)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6543)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7842)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9040)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567