Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Ân Hòa thượng Viện chủ chùa Bình An, một thành viên của môn phái Chúc Thánh tại Bình Định

14/04/202011:53(Xem: 3488)
Niệm Ân Hòa thượng Viện chủ chùa Bình An, một thành viên của môn phái Chúc Thánh tại Bình Định

Niệm Ân Hòa thượng Viện chủ chùa Bình An,
 một thành viên của môn phái Chúc Thánh tại Bình Định

 

Kính bạch Giác Linh Hòa thượng,

Thế là duyên trần đã mãn, sau hơn bảy mươi năm sống ở đời làm tròn hạnh nguyện xuất gia, hoằng pháp lợi sanh, báo Phật ân đức, Hòa thượng vĩnh viễn chia tay tất cả chư tôn đức Tăng trong sơn môn Bình Định, chư Tăng trong môn phái Chúc Thánh, chư Tăng ni, học trò, đệ tử cùng chư Phật tử bổn đạo đi về Tịnh độ, để lại nỗi niềm thương kính vô vàn của chư sơn trong môn phái Chúc Thánh tại Bình Định hôm nay. Vẫn biết sanh tử vô thường nhưng chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử không sao khỏi ngậm ngùi tiếc thương một vị giáo thọ cần mẫn đức độ, một vị Hòa thượng từ ái bao dung, một thành viên của môn phái lúc nào cũng hết lòng với chư sơn, một vị Thầy rất đơn giản trong đời thường nhưng tu trì rất nghiêm mật hằng ngày.

Nhớ những tháng ngày kham khổ khó khăn, ngôi chùa Bình An của Hòa thượng là nơi đón tiếp quý Ngài, quý chư Tăng dừng bước mỗi lần có dịp ngang qua. Dù chỉ là một chén trà xanh, một bữa cơm tương chao đạm bạc, nhưng hàm chứa tất cả chân tình và cung kính của Hòa thượng. Hình bóng Ngài Đổng Quán, Ngài Giác Hoa, Ngài Liễu Không, Ngài Bửu Thắng chắc chắn vẫn lưu lại trong tâm thức của chư Tăng và nhiều người từng biết đến tấm lòng kính Tăng như kính Phật của Hòa thượng. Không những quý tôn đức hữu danh, mà quý sư ông như Sư Ông Mỹ Long, Sư Ông Long Thạnh vẫn thường lưu tới với chùa Bình An, được Hòa thượng chăm sóc và cung cấp đầy đủ từ vật chất đến tinh thần. Trong những ngày củi châu gạo quế khó quên ấy, niềm cung kính chư Tăng của Hòa thượng hiện thân thật là vi diệu. Hòa thượng đạp xe hơn mấy chục cây số ra chùa Long Đa dâng cúng Ngài Long Đa một bộ đồ lam thật mới để Ngài mặc thường ngày. Hòa thượng đem một bộ y vàng ra tận Lộc Thượng dâng cúng cho một vị lão tăng ở ngôi chùa quê nhỏ, đã lâu ước mơ có một bộ y mới lễ Phật.

Với Pháp lữ cùng thời với mình, Hòa thượng luôn luôn vui vẻ chia sẻ mọi việc từ đời đến đạo. Tinh thần lục hòa cần tu và cầu học của Hòa thượng không những gắn bó huynh đệ gần lại với nhau cùng nghiên cứu kinh điển, mà luôn luôn bày tỏ sự hiếu học đối với chư Tôn Thạc Đức trong bổn tỉnh. Hòa thượng đã từng kêu gọi huynh đệ cùng xuống chùa Long Khánh dự lớp giảng kinh Đại Thừa của Hòa thượng Tâm Hoàn, đến chùa Minh Tịnh học với Hòa thượng Huyền Ấn, lên chùa Sơn Long học với Hòa thượng Bình Chánh. Dù có lúc, việc ứng phó đạo tràng gặp nhiều trở ngại, nhưng Hòa thượng vẫn kêu gọi quý huynh đệ ngồi lại với nhau tại Chùa Long Phước cùng nghiên cứu chân nghĩa từ Pháp Sự Trung Khoa và tập luyện các điệu tán rất khó theo nghi thức Chẩn Tế Bình Định rất đặc biệt, để lưu giữ và truyền thừa nét đẹp văn hóa nghi lễ Phật giáo tỉnh nhà.

Với hàng hậu học, Hòa thượng dành tình thương mến thật sự, khuyên lơn chân tình và hướng dẫn cặn kẽ mọi điều từ việc tu đến việc học. Những ai lỡ sa chân muốn quay trở lại được toại nguyện sau khi gặp và được Hòa thượng giúp đỡ tận tình. Hòa thượng đã biến ngôi chùa Bình An nho nhỏ thành một trường Phật học giảng dạy dưới hình thức Gia giáo. Đêm đêm dưới ánh đèn dầu leo léo, nhiều mái đầu còn chõm chụm lại đọc ê a bốn quyển Luật trường hàng do Hòa thượng trùng tuyên. Các chú được gửi đến chùa Bình An không chỉ từ các chùa trong môn phái như Phổ Bảo, Hưng Khánh, Khánh Lâm, Sơn Long, Phổ Quang, Long Phước, Vân Sơn, v.v… mà còn ngoài môn phái như Thiên Đức, Long Khánh, v.v…Cũng có những chú đến từ các chùa ở tỉnh khác như Gia Lai, Kontum nữa. Giờ từ lớp học Gia giáo, có rất nhiều cách chim đã làm nên lịch sử môn phái Chúc Thánh Bình Định nói riêng và Sơn Môn Bình Định nói chung. Xuất thân từ lớp Gia giáo Chùa Bình An, nhiều vị Tăng tung cánh bay vào khung trời học thuật và hoằng pháp đã thành thân cũng như thành danh trong hiện tại.

Khi Giáo hội tỉnh nhà được phép mở trường Phật học, Hòa thượng là một trong số chư Tăng trong môn phái được cung thỉnh vào ban Giáo thọ giảng dạy các môn Luật học, Kinh điển Đại Thừa và chữ Hán. Hòa thượng không chỉ là một nhà sư phạm Phật học uyên thâm mà còn hiện thân một vị Thầy khả kính với hình ảnh dung dị, khiêm cung và nghiêm mật làm tấm gương sáng cho đàn hậu học noi theo. Học trò của Hòa thượng ở trường Trung Cấp Phật Học giờ đây đã có rất nhiều thành tựu và thành công Phật sự, đóng góp công đức rất nhiều cho trường Trung Cấp Phật Học, Phật giáo tỉnh nhà và các nơi.


chua binh an


Với chốn Tổ Sơn Long, Hòa thượng là một trong những người có nhiều kỷ niệm và công đức nhất trong hơn hai thập niên trước. Gọi là kỷ niệm bởi Hòa thượng là người duy nhất được Hòa thượng Bình Chánh, vị Cao tăng ẩn cư hơn 20 năm dài của môn phái rất nổi tiếng, gọi lên chùa Sơn Long học cùng với Hòa thượng Quảng Bửu và Hòa thượng Đồng Tịnh, về sau chỉ còn lại Hòa thượng với Hòa thượng Quảng Bửu trong lớp nghe Kinh chỉ có hai học trò. Gọi là công đức bởi chính Hòa thượng là người có nhiều phước duyên được chăm sóc Hòa thượng Bình Chánh vào những ngày cuối đời của Ngài. Sau khi Ngài viên tịch, Hòa thượng và đệ tử Giác Hiệp là người đầu tiên vào chùa Sơn Long thỉnh chuông trống Bát Nhã thông báo cho bổn đạo hay tin.

Sau khi Hòa thượng Bình Chánh viên tịch, thầy Đồng Đức còn là Sa Di, Hòa thượng đã hết lòng chỉ thầy Đồng Đức học để đăng đàn thọ đại giới và cử Tăng chúng từ chùa Bình An lên chốn Tổ Sơn Long để công đức từ việc nông thiền cho đến chăm sóc dọn dẹp trong sân chùa. Công đức của Hòa thượng và học trò, đệ tử của Hòa thượng mãi mãi tồn tại, không thể nào quên trong tâm thức của thầy Trụ trì chùa Tổ và chư sơn trong môn phái.

Với bà con bổn đạo Phật tử, tấm lòng bao dung và đức độ Hòa thượng là chỗ dựa tâm linh vững chắc, nhất là bà con Phật tử thuần tín. Không ai có thể quên hình ảnh vợ chồng đạo hữu Lê Trọng Cừu đã nương náu ở chùa Bình An trong những ngày khốn khó nhất của đời mình. Đạo Hữu Lê Trọng Cừu vốn là một trong những thành viên hộ trì Tam bảo nhiệt tình nhất cho Tu viện Nguyên Thiều vào ngày đầu tiên mới thành lập, nhưng không may khi cuộc thế đổi thay, vợ chồng đạo hữu phải chịu cảnh, không nhà, không con, không người thân thuộc, được Hòa thượng cưu mang trong cửa Thiền cho đến ngày đạo hữu qua đời. Thời đó, một người bình thường đến thăm lỡ mất trong nhà, gia chủ ấy phải đối diện với nhiều vấn đề khó khăn, huống gì một người như đạo hữu Lê Trọng Cừu ra đi trong chùa Bình An, không một giấy tùy thân, không của cải giá trị, nhưng Hòa thượng đã bình tĩnh lo tất cả mọi hậu sự trang nghiêm cho đạo hữu, để lại niềm xúc động vô biên cho Hòa thượng Đồng Thiện lúc bấy giờ.

Hơn thế nữa, Hòa thượng còn giúp đỡ nhiều gia đình khó khăn, nhiều bệnh nhân trọng bệnh, nhất là bệnh lao phổi. Hòa thượng sẵn sàng mang về chùa Bình An để điều trị và chích thuốc hằng ngày mà không có một chút lo lắng hãi sợ về việc truyền nhiễm và lây lan. Có lẽ nhờ Phật độ, sức khỏe của Hòa thượng không bị nhiễm lao cho đến ngày vĩnh viễn ra đi.

Dù phải lo việc giảng dạy và hướng dẫn đệ tử, đệ tôn tu học nhưng Hòa thượng không quên việc trùng tu ngôi chùa Bình An, vốn xây dựng năm 1963 đã xuống cấp rất nhiều. Hòa thượng bắt đầu việc trùng tu từ tâm nguyện của mình. Đêm đêm, Hòa thượng hành trì pháp thỉnh đại hồng chung cầu nguyện âm siêu dương thái và cầu nguyện cho Phật sự trùng tu thành tựu viên mãn. Quả nhiên, sau vài năm trùng tu, ngôi chùa Bình An thật là trang nghiêm trở thành một trong những ngôi chùa đẹp của tỉnh nhà, được nhiều Tăng Ni chọn làm bản mẫu để thiết kế trùng tu chùa mình.

Cả cuộc đời tu và hoằng pháp của Hòa thượng như một dòng chảy Phật Pháp liên tục mang phù sa tô thắm cho những cánh đồng chư Tăng và Phật tử tươi xanh. Hạnh nguyện của Hòa thượng đến với cuộc đời chắc chắn khởi đi từ tâm Bồ Đề  thiêng liêng và cao quý cho nên ảnh hưởng của việc hoằng pháp và Phật sự của Hòa thượng thật là vô lượng vô biên. Nhắc đến Hòa thượng Bình An, chư sơn trong môn phái vô cùng tự hào bởi Hòa thượng đã kế thừa chân truyền từ chư Tôn đức hữu danh như, quý Hòa thượng: Bích Liên, Liên Tôn, Bạch Sa, Bác Ái, Trí Độ, Huyền Ấn, Huyền Quang, Giác Đạo, v.v…

Đã được sanh ra trong cõi đời nầy, ai cũng phải trải qua bốn cửa ải sanh, già, bệnh và vĩnh viễn ra đi, Hòa thượng cũng không ngoài quy luật tự nhiên ấy. Hòa thượng đã  về với Phật A Di Đà song hình ảnh dung dị nghiêm mật của Ngài vẫn còn đó trong tình Pháp lữ của Chư Sơn, trong niềm kính nhớ của đệ tử Hòa thượng, đặc biệt trong niềm kính ngưỡng tiếc thương của tất cả chư Tăng và Phật tử tỉnh nhà.

Ngưỡng mong Giác Linh Hòa thượng hồi nhập Ta Bà để quang độ chúng sanh.

                                     

Môn Phái Chúc Thánh Bình Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6882)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 728)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33661)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4666)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4631)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4595)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4549)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4868)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4595)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7536)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567