Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngài Bình An đã bình an

18/04/202018:39(Xem: 3854)
Ngài Bình An đã bình an


ht dong chon 5

Kính lạy Giác linh Hòa thượng,

Ông bạn Giác Hiệp điện thoại mời đóng góp vài lời cho tập Kỷ yếu tang lễ ngài. Thật tình mà nói: hơi do dự một chút và hơi hoang mang một xíu (hơi hơi thôi). Hoang mang vì bản thân con không biết viết như thế nào cho thực, cho bình dị như cuộc sống của ngài. Hai thế hệ cách nhau 20 tuổi và hai chùa cách nhau 20km, không thể gọi gần gũi mà cũng không phải gọi xa lạ được. Nhưng có một yếu tố rất quan trọng có thể xóa tan được thời gian tâm lý và không gian vật lý. Đó là Hòa thượng và thầy Giáo thọ của con (Hòa thượng Đồng Hạnh 1943-2003) là pháp lữ thân thiết từ lúc còn là Tăng sinh của Phật học viện Phước Huệ (1970-1973), tổ đình Thập Tháp. Đến khi ra hành đạo hai ngài vẫn thường xuyên thăm hỏi luận bàn Phật pháp. Hai ngài có nhân duyên rất đặc biệt và ấn tượng khiến lớp Tăng sinh thời đó không thể không nhớ. Hòa thượng thế danh là Bảy, thầy Giáo thọ của con là Tám. Đáng nhớ hơn nữa là cuộc đời của hai ngài rất xứng đáng với câu:

Thiền tâm hạo khiết minh như nguyệt,
Giới hạnh tinh nghiêm tịnh nhược sương”
.

Hai ngài cùng là Giáo thọ Trường Phật học Nguyên Thiều, Bình định. Ngài chuyên dạy Luật (từ 1992-2015), rất nghiêm túc, rất kỷ cương nhưng rất bi mẫn. Thầy giáo thọ con dạy Duy thức và Hán cổ (1992-2002), rất hòa đồng, rất thông cảm, đôi khi pha chút khôi hài nhưng không thiếu chất mô phạm. Tăng ni sinh nào “lạng quạng”, là một giáo thọ môn Luật, ngài cứ “thẳng mực tàu (mặc kệ) đau lòng gỗ”, nhưng khi đến tai ngài giáo thọ Duy thức thì tội nặng hóa nhẹ, tội nhẹ hóa nhẹ hơn.

Con là bạn đồng học, đồng thế hệ của các đệ tử của ngài, như TT. Thích Giác Hiệp, TT. Thích Giác Khánh (đã viên tịch), TT. Thích Giác Quảng, v.v…cho nên không biết viết với tâm trạng nào, tri ân? ca tụng? tình nghĩa?

thich giac khanh

TT. Thích Nhuận An và TT. Thích Giác Khánh, _chụp tại Hồ Con Rùa (năm 1990),
ngày mới vô Sài Gòn (sau lưng là xe đạp của Giác Khánh)



Thưa chư vị môn đồ,

            Những tâm trạng đó phải được viết với văn phong bay bổng, trau chuốt hoa mỹ có khi pha chút ảo tưởng. Ngài vốn không thích chữ nghĩa rườm rà, hoa hòe hoa soái, trống rỗng. Vả lại bản thân tôi nghi ngờ tính khả thi của tập Kỷ yếu. Trước đây, khi Hòa thượng Thích Quảng Bửu, đệ nhị trú trì Tu viện Nguyên Thiều, tịch (2016), TT. Thích Đồng Trí (TT. Thích Minh Tuệ), là môn đồ; TT. Thích Đồng Thành (hiệu trưởng trường Nguyên Thiều) đồng ký tên chung trong thư mời viết bài cho Kỷ yếu tang lễ của Hòa thượng Thích Quảng Bửu. Lúc đó 2 vị nói rằng sẽ in xong và phát trong lễ Tiểu tường; sau đó khất lại đến Đại tường, nhưng đến nay (2020) Kỷ yếu vẫn chưa  xong. Không biết 2 vị đó có còn muốn tiếp tục hay đã bỏ cuộc rồi. Tôi vẫn ngày đêm trông chờ cho đến khi nào có tâm thư tuyên bố rằng không thực hiện nổi. Có nói cho TT. Thích Giác Hiệp trường hợp đó và Giác Hiệp khẳng định chắc chắn sẽ thực hiện được. TT. Thích Giác Hiệp nói qua điện thoại “Đóng góp vài cảm niệm và kỷ niệm về Hòa thượng”. Như vậy 2 tâm trạng hoang mang và do dự được giải tỏa.

Từ lúc còn là Tăng sinh Phật học viện Phước Huệ tới khi là Giáo thọ, là Tôn chứng và là Tam sư trong các Đại giới đàn, ngài thường mở đầu và kết thúc câu chuyện bằng hai từ “chán đời”. Hơn một tuần trước khi ngài tịch, tôi có thăm. Đang trò chuyện, ngài nhìn ra cổng tam quan, nói “tội nghiệp, muốn tu hành niệm Phật mà cũng không được, chán đời”. Thì ra hôm đó đúng ngày niệm Phật hằng tháng của đạo tràng chùa Bình An nhưng gặp ngoại duyên nên không tổ chức được. Các Phật tử vừa vô lại buồn bã ra về. Nói câu đó, hai mắt ươn ướt, vẻ buồn thương hiện rõ trên mặt ngài. Khi câu chuyện đến nội dung về hành trạng của chư vị Hòa thượng trong quá khứ. Mỗi ngài một lối sống, có vị ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc, có vị hành đạo tại thị thành náo nhiệt, cũng có những vị thực hành nông thiền dưới hình thức một ông thầy nông dân lam lũ. Ngoài việc hành trì hai thời công phu với chuông chiều mõ sớm, các ngài còn phải cần cù chấp tác với thửa ruộng mảnh vườn của chùa để tự trang trải cuộc sống quanh năm. Thành quả lao động ấy không những để ăn mà còn đem bán để mua nhang đèn hoa quả cúng Phật (nếu có dư). Vì lẽ hạt cơm miếng vải của đàn việt rất nặng, nếu tu hành lơ là thì “tín thí nan tiêu”. Ăn thì tương dưa đạm bạt, mặc thì vải vóc thô sơ. Y phục thì vá chằm vá đụm, dùng cho đến khi nào không thể  vá được nữa mới bỏ, nhưng lại cắt những chỗ còn tốt để lại, hoặc để lau nhà, hoặc để chà chân, hoặc dùng lau bếp, v.v… Các ngài ăn mặc đơn sơ tiết kiệm đến mức lôi thôi. Có khách phương xa đến chùa cứ tưởng vị phương trượng tổ đình là bác Phật tử làm công quả. Tuy nhiên, đạo phong các ngài luôn tỏa ấm với phạm hạnh tinh nghiêm, với định lực kiên cố, không bị danh lợi ràng buộc, không bị chức quyền lôi cuốn. Âm thầm lặng lẽ, không phô trương, không quảng cáo, các ngài đã nuôi dạy được nhiều thế hệ những bậc thầy mô phạm cho sơn môn giáo hội. Đang kể, bỗng ngài ngưng lại, mắt nhìn xa xăm ra vẻ ưu tư cho hiện tại và tương lai. Có một lần tôi hỏi ngài: “Tại sao thầy nói chán đời luôn vậy?” Ngài đáp: “Tui nói chán đời nhưng tui không chán đời mà là tui chán cái sự đời”. Cái kiểu trả lời này giống như Đức Phật dạy tôn giả Tu Bồ Đề: “Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp”.

Tôi nghe ngài trả lời mà thầm kính phục trong lòng, nghĩ rằng: thầy này cũng thâm thúy thật, chỉ với hai từ chán đời mà đã nói lên được mô thức của giáo lý Bát-nhã: …tức phithị danh… Rõ ràng ngài không chán đời. Qua hành trạng, ngài cũng nuôi dạy đồ chúng, giáo hóa tín đồ, xây chùa đúc chuông, làm bao nhiêu phước đức.

Đã thăm và nói chuyện cùng ngài hơn một tiếng đồng hồ, tôi xin được ra về. Ngài bảo: “ở lại nói chuyện cho dui chứ dìa làm gì, chán đời, thầy dìa rồi, một mình tui, buồn”. Tôi lại ngồi xuống, đến lần thứ ba, ngài im lặng, tôi mới ra về. Mới quay lưng, ngài gọi lại nói: “Khi ngài Bửu Quang tịch (1995), tui làm kinh sư,  cúng đủ 7 thất, nay mai tui chết, thầy nhớ xuống cúng tui nghen”. Tôi dạ và ngài nhìn tôi mỉm cười nhưng đượm vẻ buồn sâu lắng, như sắp đi xa. Đây là lần chót tôi thăm và nói chuyện lâu như vậy. Trước đấy, cuối năm 2019, tôi có tới thăm ngài. Vừa chào và hỏi thăm vài câu, ra về liền, vì tôi thấy thầy Giác Thiện mới từ Mỹ về thăm. Tôi nhường thời gian lại cho người ở xa.

Thông thường, trong sơn môn, thường xưng hô các vị Hòa thượng, Thượng tọa bằng tên chùa, ít khi gọi thẳng pháp danh hay pháp tự của các ngài, nếu có, chỉ gọi pháp hiệu hoặc ngoại hiệu. Lúc sinh tiền, chư tôn đức, thế hệ 5 – 6X, gọi ngài là thầy Bình An; thế hệ 8 – 9X về sau gọi là ngài Bình An. Đặc biệt thế hệ 3X và 4X gọi ngài là “thầy chán đời”, hoặc gọi “anh + tên đời + chán đời”. Trong tỉnh dường như chư Tăng ai cũng biết cái ngoại hiệu thân mật này. Mỗi khi nghe, ngài hoan hỷ và thích lắm. Ai cũng biết, nhưng không phải ai cũng gọi được đâu, nhất là các thế hệ X lớn dần.

Cuộc đời ngài như đất, mùa xuân thì ẩm ướt để nuôi hoa cỏ, mùa đông thì mềm lún và mùa hạ thì khô cứng. Đối với chư tôn đức, ngài cung kính mềm mỏng như đất mùa đông; với các học trò đệ tử như đất mùa xuân và đối với danh lợi quyền uy như đất mùa hạ, không cho chúng đâm chồi nảy lá. Tính chất của đất không những có thể nuôi dưỡng mà còn có thể nâng đỡ nữa: “Địa, ngôn kiên hậu quảng hàm tàng” (đất dày chắc mới bình an được). Ngài không thích tôn xưng bằng những mỹ hiệu như: tòng lâm thạch trụ, pháp nhũ triêm ân, bóng mát đại thọ, v.v… Vả lại, đất là 1 trong 4 nguyên tố cấu thành vũ trụ vật chất thiên hình vạn trạng, theo quy trình: sanh, trụ, dị, diệt, nhưng không mất hẳn, chỉ biến dạng.

Chư vị, hôm nay Bổn sư các vị đã viên tịch, chứ không phải mất. Tương lai, trong môn đồ hoặc trong sơn môn, sẽ có những vị tính tình thuần hậu, chân chất bình dị, đạo hạnh trang nghiêm, có thể là ở “thử thế giới hoặc tha thế giới, thử quốc độ hay tha quốc độ”. Đó là tinh anh của thầy các vị tái hiện Ta-bà, tạo nên nhiều pháp khí quý báu cho tòng lâm giáo hội. Một ngài Bình An ra đi để thổi hồn thành nhiều thầy Bình An nữa, há không mừng cho đạo pháp lắm ru? Tôi chắc các vị còn nhớ Đức Phật nói: “Như lai bất niết-bàn, bán nguyệt bán nguyệt lai” (Như lai chưa hề niết-bàn nếu chư tăng duy trì tụng giới mỗi nửa tháng). Cũng như trong hiện tại hay tương lai, những vị nào hành trì nghiêm mật, giới hạnh châu viên, há chẳng phải là hiện thân của Hòa thượng Giác Ngộ (chùa Bửu Thắng, Gia lai) hay Hòa thượng Đồng Thiện (đệ nhị trú trì tu viện Nguyên Thiều) ư? Vị nào công phu miên mật, cần khổ giản đơn, bình dị thật thà, lại chẳng phải là hóa thân của Hòa thượng Quảng Bửu sao? Vẫn biết rằng “sanh tử tuy là huyễn, (nhưng) ly biệt cũng đau lòng” (chỉ được đau buồn một chút thôi nhé). Tôi biết môn đồ các vị bối rối trong thời gian tang lễ, nên quên mất rằng trong các tấm trướng phúng điếu, chư tôn đức có nhắc nào là: Tịch diệt phi diệt, Tịch diệt vi lạc, Hội nhập ta bà v.v… Nếu đã là …(phi diệt), là …(vi lạc) thì tất cả phải vui mừng sung sướng mới đúng. Mô Phật.

TT. Thích Nhuận An

Tổ đình Hưng Long

 An Nhơn, Bình Định





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6599)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6902)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 813)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33767)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4695)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4652)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4616)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4571)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4888)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4617)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567