Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhắc lại một kỷ niệm để tưởng nhớ Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ

02/03/202007:37(Xem: 6115)
Nhắc lại một kỷ niệm để tưởng nhớ Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ

Giáo Sư sử học Nguyễn Huệ Chi

nhắc lại một kỷ niệm để tưởng nhớ
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ


Le tuong niem ht thich quang do (1)Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ

Năm 1992, bấy giờ tôi đang là cán bộ của Viện Văn học, hơn nữa lại đang giữ một chức về khoa học cũng có thể gọi là to: Chủ tịch Hội đồng khoa học của Viện. Nhân đang được Viện giao Chủ biên công trình “Thơ văn Lý-Trần”, tôi đề nghị với Viện trưởng kiêm Tổng biên tập tờ “Tạp chí Văn học” cho mình chịu trách nhiệm ra một số đặc san về văn học Phật giáo, được Viện trưởng chấp nhận. Trong khi chuẩn bị cho số báo này, tôi nghe phong thanh ở Thái Bình có một nhà sư tài giỏi từ miền Nam bị Nhà nước lưu đày ra đây đã hơn mười năm, vì tội không thừa nhận Hội Phật giáo Việt Nam do Nhà nước cai quản mà chủ trương một tổ chức Phật giáo độc lập lấy tên là Hội Phật giáo Thống nhất, có Ban lãnh đạo do toàn thể hội viên bầu lấy, và có đường lối tu tập riêng của mình. Tiếng tăm vị sư lan tỏa rất xa, từ Thái Bình bay lên đến Hà Nội, với những lời đồn thổi khiến người nghe hết sức tò mò, rằng đây là một nhà Phật học thông thái phi thường, khác xa lớp sư trụ trì ở các chùa miền Bắc trước nay.

Một hôm, vào khoảng đầu tháng 7-1992, có người bạn là nhà nho Nguyễn Tiến Đoàn từ Thái Bình lên Hà Nội, đến nhà thăm tôi. Tôi đem chuyện nhà sư bị lưu đày ra hỏi anh thì không ngờ chính anh đã từng thân hành đến ngôi chùa giam lỏng vị sư này để tìm gặp ông và được ông trao đổi rất cởi mở. Và theo anh, đó quả thực là một bậc thầy về Phật học trước nay anh chưa từng gặp. Thế là tôi liền mời anh Đoàn viết cho một bài về cuộc gặp gỡ hy hữu đó để đăng vào số đặc san tôi đang phụ trách, sẽ được in vào cuối tháng 8-1992. Anh Đoàn hào hứng ngồi tại nhà tôi viết ngay, và viết trong có một buổi là xong. Khi anh “nộp quyển” cho tôi, chúng tôi cùng đọc lại, bàn bạc chỉnh sửa câu chữ với nhau, trong đó chủ trương chỉ để tên vị sư xuất hiện một lần duy nhất ở cuối bài, nhằm tạo nên một ấn tượng mạnh, đọng lại rất lâu trong lòng bạn đọc. Mặt khác chúng tôi cũng tra cứu và bổ sung thêm các chú thích cần thiết cho rõ ra một bài viết học thuật, để khỏi có ai nghi ngờ dụng ý không hay. Thế mà chỉ mấy ngày sau, tôi lại nhận được một lá thư của anh Đoàn gửi từ Thái Bình lên đề nghị cho rút bài lại, không phải vì anh sợ cho mình mà sợ khi in ra có thể ảnh hưởng đến chính tôi. Nhưng tôi trả lời anh, tôi chịu trách nhiệm việc này, rồi quyết định ký vào bản đánh máy cho đưa đi nhà in.

giao su nguyen hue chiGiáo sư Nguyễn Huệ Chi

Số đặc san Tạp chí Văn học về Văn học Phật giáo ra mắt vào đầu tháng 9-1992 đã gây được một tiếng vang sâu rộng và nói chung là “an lành”, chỉ trừ những số chuyển về Thái Bình là bị thu giữ toàn bộ, nên tác giả Nguyễn Tiến Đoàn từng nhiều lần cất công đi lùng tìm ở các hiệu sách vẫn không mua được một số nào cả. Nhưng về mặt tình cảm, cả anh và tôi đều đã chung nhau một kỷ niệm không thể nào quên trong việc tôn vinh một vị sư tài danh ngay giữa lúc người đó đang trong thân phận một tên tù. Và thời gian cũng cho thấy những gì chúng tôi làm hoàn toàn không lầm lẫn: vị Thượng tọa năm nào bị lưu đày ở Thái Bình chính là Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ lẫy lừng tên tuổi vừa giã từ nhân thế mà người Việt trong nước cũng như nhiều nơi trên thế giới đều bày tỏ tình cảm kính phục, thương tiếc.

Dưới đây, xin ghi lại bài báo của tác giả Nguyễn Tiến Đoàn, bài viết duy nhất trên một tạp chí học thuật chính thống của Việt Nam nói về vị Hòa thượng từ mấy chục năm nay vẫn bị coi là phần tử chống Đảng sừng sỏ, nhằm tưởng niệm anh hồn ngài, cũng là để tưởng nhớ đến người bạn thông thái Nguyễn Tiến Đoàn đã khuất núi từ năm 2015 mà trước khi mất khoảng nửa năm anh còn làm một bài thơ chữ Hán tặng tôi, coi tôi là người bạn tri kỷ trên đời (12).

Nguyễn Huệ Chi

ht quang do 5

Trò chuyện với một nhà nghiên cứu Phật học

Nguyễn Tiến Đoàn

Vào khoảng đầu những năm 80, nhân đọc cuốn Thiền học của Giáo sư Nhật Bản D. T. Suzuki qua bản tiếng Pháp do ông bạn già ở chùa Trà Vy, xã Vũ Công là nhà văn Nguyễn Hữu Đang cho mượn, tôi có gặp từ “Satori”. Qua văn cảnh cũng có thể luận ra nghĩa của từ đó, song tôi vẫn chưa thể yên tâm. Tôi bèn tìm mấy bộ từ điển tiếng Pháp tra cứu, nhưng đều không thấy ghi từ này, nên trong lòng vẫn áy náy. Tôi tự nhủ, mình là kẻ ngoại đạo, hiểu thế là được rồi. Dẫu sao, một sự mắc mớ về tri thức chưa được giải đáp đến nơi đến chốn vẫn như cái gai trong đầu, mỗi khi chợt nghĩ đến, hoặc cầm đến cuốn sách của nhà Thiền học bậc thầy. Mấy lần tôi đến ông bạn chủ nhân của cuốn sách để hỏi về nghĩa của cái từ hắc búa, thì đều không gặp, khi ông đi Hà Nội, khi thì ông du ngoạn các làng xã trong vùng. Bỗng một hôm có anh thợ mộc gần nhà, tình cờ trong câu chuyện cho biết một tin: có một vị sư ở thành phố Hồ Chí Minh mới ra ở chùa xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư. Người ta nói, vị sư ấy đỗ đến mấy bằng Tiến sĩ, từng đi nhiều nước trên thế giới. Ông là người nghiên cứu, đến chơi mà chuyện trò với nhà sư ấy hẳn là mọi thắc mắc có thể được “giải tỏa”. Bấy giờ là khoảng tháng Sáu năm 1982, tôi đang nghiên cứu về xã Hành Dũng Nghĩa (tức xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư) nơi có ấp Tả Hành của Tiến sĩ Hy Long Đặng Xuân Bảng, nơi có thành đồn Phan Ba Vành; và cũng đang nghiên cứu tiểu sử Đốc học Nghệ An Nguyễn Doãn Vọng, người thầy học của các Tiến sĩ Phan Đình Phùng, Phan Trọng Mưu, Phan Huy Nhuận, cũng như nghiên cứu về giảng quan phủ Tôn nhân triều Tự Đức, Cử nhân Nguyễn Doãn Cử, người thầy học của vua Hàm Nghi… Tiện đường đi nghiên cứu, một hôm ngay từ rất sớm tôi đã tìm đến ngôi chùa xã Vũ Đoài mong được gặp vị sư như anh thợ mộc thông báo, nhằm hỏi nghĩa từ “Satori” mà lòng vẫn canh cánh không nguôi.

Đây là một ngôi chùa nhỏ cổ kính ven làng thật yên tĩnh, ít người qua lại. Con đường nhỏ quanh co, cỏ mọc um tùm dẫn tôi đến cổng chùa. Tôi dắt xe đi rất chậm để ngắm cảnh. Mùi hương hoa cau, hoa ngâu, hoa đại lan trong gió sớm, tôi thở hít thật sâu, cảm thấy lâng lâng dễ chịu. Nhiều loài rêu mọc trên những viên gạch lát, rêu chân tường, rêu mái ngói như những hoa văn tuyệt hảo của họa sĩ bậc thầy trang trí cho ngôi chùa thêm vẻ trầm tư. Con đường dẫn vào sân sau nơi có căn nhà rạ cũ ba gian hai chái và nhà bếp. Tôi dựa xe đứng ngơ ngẩn một lát chẳng thấy bóng người. Bỗng một bà già ở trong bếp ra, hỏi: “Ông gặp ai?”

– Tôi muốn gặp… nhà sư.

– Ngài đang ở trên chùa. Ông chờ cho một chút.

Lát sau, xuất hiện trước mặt tôi là một vị sư trạc tuổi quá ngũ tuần, dáng điềm tĩnh, linh lợi. Đặc biệt ông có đôi mắt rất sáng, như xuyên vào tâm tưởng người đối diện với mình (tôi thầm nghĩ, trong Ma Y tướng pháp gọi đó là “hổ nhỡn”), một bộ râu đẹp như râu Đạt Ma và nhất là tinh thần ông tự chủ, hồn nhiên làm cho tôi dễ bắt đầu câu chuyện.

– Thưa ngài, ngài mới ở trong Nam ra?

– Tôi mới ra đây ít hôm. Chẳng hay ông có việc gì cần gặp tôi?

– Thưa ngài… nhân đọc về Thiền học, có chữ tôi không hiểu, muốn gặp ngài giải nghĩa giùm cho.

Sau khi nghe tôi tự giới thiệu mình là người nghiên cứu lịch sử, cần đọc rộng các sách nên mới đến với cửa Phật, nhà sư bỗng nở nụ cười rất tươi và nói: “Có lẽ ông nên đến thư viện. Tôi chả có tài liệu, sách vở gì. Tôi đi rất vội. Ông thông cảm”.

Tôi biết nhà sư từ chối không muốn tiếp. Lúng túng vài phút, tôi đánh bạo gặng thêm:

Mong ngài giải nghĩa cho chỉ một từ thôi. Tôi sẽ không làm phiền ngài ngoài chuyện chữ nghĩa này.

Thấy tôi khẩn khoản, nhà sư hỏi:

– Ông định hỏi về chữ gì ?

– Thưa ngài, chữ “Satori” trong cuốn “Thiền học” của Suzuki.

– Nhà xuất bản nào?

– In ở Paris. Không nhớ tên nhà xuất bản.

– Ông có biết chữ Hán không ?

– Thưa ngài. Biết võ vẽ, chữ “tác”, chữ “tộ” thôi!

Thế là nhà sư bỗng chỉ chiếc ghế mời tôi ngồi, rồi cũng ngồi xuống, và thung dung nói liền một mạch, hầu như không cần đắn đo suy nghĩ. Giọng ông càng nói càng say sưa, như phong thái của nhà thuyết pháp Anagarika Govinda. Tôi rất chú ý nghe những chỗ chuyển ý, chuyển đoạn khi nhà sư thuyết trình.

Đại lược, ông nói: Ông biết, trong nhận thức luận của K.Marx và Bertrand Russel có chỗ tiệm cận giống nhau. Quy luật nhận thức là một quá trình đặc biệt và không đơn giản. Nhận thức luận của Phật học có nét tương đồng song phần duy lý trừu tượng thì đa dạng lắm. Nhà sư chiêu một ngụm nước nhấp giọng. Và nói tiếp cho nghe về “Bát thức” trong duy thức luận. Ông đột ngột hỏi tôi: “Ông có biết chữ “Giác”, chữ Hán viết thế nào không? Giác là sự nhận thức khách quan với vạn giới, với chính mình. Với chính mình là điều khó lắm. Cái mà Lão Tử nói: “tự tri giả minh, tự thắng giả cường” cũng có chỗ tương đồng nhưng chưa đủ. “Giác” phải được tích tụ nhiều đến độ bão hòa của chủ thể theo một đường hướng tập trung nhất. Từ đó dẫn tới sự bùng nổ nhận thức. Sự bùng nổ ấy là giai đoạn của “Ngộ”. Cái nghĩa mà ông cần hỏi là như thế. Vậy Thiền, Gyò, Satori hay Ngộ là đồng nhất, và nếu cân được nó, tất nhiên lại có cấp độ khác nhau ở mỗi chủ thể, mỗi con người. Song ở chủ thể nào cũng phải là sự bùng nổ nhận thức mới gọi là “Satori” được. Chủ thể sau khi bùng nổ là một chủ thể khác trước nó, không thể tưởng tượng được”.

Câu chuyện đến đây trở nên hết sức cởi mở và tự nhiên hẳn. Tôi nói:

– Xin cảm ơn lời giải thích của ngài. Nhân đây có vài điều lặt vặt muốn hỏi ngài nữa.

Nhà sư lúc này mới chỉ vào chén nước và mở bao Điện Biên mời tôi hút. Điếu thuốc nhiều hơi ẩm đã mềm, hút không cháy. Ông chọn cho tôi một điếu khô nhất trong bao và đánh diêm giùm tôi như để xin lỗi về điếu thuốc ẩm.

– Thưa ngài, năm 1963 tôi đang ở quân đội có đọc báo biết tin nhà cổ học Trần Huy Bá phát hiện pho tượng chân hia, chân đất ở chùa Bộc gần gò Đống Đa – Hà Nội và công bố là tượng vua Quang Trung.

Mới nói đến đó nhà sư đã gật đầu, nhìn thẳng vào tôi cười thoải mái, như đã đoán biết toàn bộ ý tôi muốn hỏi. Tôi tiếp: Đến hôm nay thì tôi ngờ quá! Ở chùa Trà Vy ta đây mà tôi mới vừa thoáng thấy, và một số chùa khác nữa tôi cũng đều có gặp những pho tượng tương tự như chùa Bộc. Vậy Quang Trung được thờ làm hậu Phật chăng?

Nhà sư khẽ đẩy bao thuốc trên bàn về phía tôi, tay khác vê chòm ria.

– Chuyện ấy giới Phật giáo miền Nam trước đây chúng tôi có biết cả. Đó là một chuyện kể cũng không có gì phức tạp nhưng cách giải thích của học giới khiến người tu Thiền phải buồn cười. Ông đã muốn biết thì tôi xin nói qua. Thực ra đó chỉ là tượng đức Bồ đề Đạt Ma (Bouddhi Dharma), tổ thứ 28 sau Ma Ha Ca Diếp, Đông độ sang Trung Quốc vào thời Lương Vũ Đế (502-547). Đạt Ma tiếp xúc với Vũ Đế, thấy ông ta không hào hứng việc truyền bá đạo Phật và ngài sang nước Ngụy. Chắc ông biết câu:

“Học đáo Xương Lê chung ngộ đạo

Lý cùng Lương Vũ thủy tôn kinh”

Đấy là môt ví dụ của quá trình “Giác” và “Satori” đến chậm.

Tôi gật đầu hưởng ứng: Nhưng chậm còn hơn không thưa ngài!

Nhà sư cười: Ông bênh vực Hàn Dũ rồi!

Cả hai chúng tôi cùng cười sảng khoái.

– Khi đạo Phật truyền bá thành công ở đây, ngài Đạt Ma viên tịch. Nhà sư tiếp – có nhiều thuyết, người ta thấy Đạt Ma trở về một chân giày, một chân đất, chiếc giày còn lại ngài treo vào tích trượng. Đời sau lấy hình ảnh đặc trưng này của Đạt Ma tạc tượng ông ở nhà tổ các chùa, tiêu biểu cho Thiền tông do ông khai sáng, cho nên các tượng mới chân có giày và chân không giày. Chỉ có thế thôi. Lời giải thích giản dị của nhà sư làm tôi ngớ ra, bất chợt nhớ lại cả một thời đã qua, giới học thuật miền Bắc chúng ta từng say sưa với phát hiện mới mẻ “Quang Trung hóa Phật”…

Tôi hỏi thêm một câu:

– Xin cảm ơn ngài. Tôi không muốn lạm dụng thì giờ của ngài, nhưng xin ngài giải thích thêm cho tôi câu chú “Án ma ni bất minh hồng” mà tôi thấy dường như là một cái gì linh nghiệm ghê gớm đối với tất cả các phái, kể cả phái Lã tổ (tức Lã Động Tân) và một số người luyện Yoga ngày nay ở min Nam.

Nhà sư lắc đầu vài ba lần chẳng khác con lắc uể oải của chiếc đồng hồ cổ treo tường, nhếch mép hóm hỉnh như muốn bảo với tôi: “Anh là một kẻ bất nhất, tham lam, một tiền A la hán đối với tri thức!”. Chính tôi cũng tự cảm thấy như vậy. Song biết làm thế nào khi xu thế câu chuyện đang có chất men “yên sĩ phi lý thuần” (tức là cảm hứng)?

Rồi nhà sư lại phấn chấn nói ngay:

– Có một người Pháp đã bỏ thời gian gần suốt cuộc đời, trong 25 năm nghiên cứu chỉ để viết một cuốn sách nói về nguồn gốc, ý nghĩa lời chú này. Ông ta đã đi đến Ấn Độ, Sơri Lanca, Miến và các nước vùng Trung Á có đạo Phật, lên cả vùng núi Hy Mã. Sau khi thu thập tư liệu, nhân chứng, ông viết cuốn sách dày tới nghìn trang, tự bỏ tiền in 1.000 cuốn không bán, chỉ để biếu các thư viện lớn trên thế giới. Như vậy đấy, người phương Tây họ cũng có nhiều cái kỳ lạ của họ, kỳ lạ như thế thật là tốt! Lời chú ấy hàm chứa nhiều ý nghĩa, không thể nói với ông buổi sáng nay được. Tôi nói rất sơ lược để ông có khái niệm: Lời chú ấy để tịnh tâm, làm cho lòng trong suốt như gương, không chút nhơ bẩn. Sống giữa cuộc đời phiền trọc mà mình vẫn không ô nhiễm. Một trong nhiều nghĩa cơ bản của nó là: “Người ở trong Ta, Ta ở trong Người”.

Người và Ta (viết hoa) lại mang những hàm nghĩa triết học. Người ấy là ai? Là lý tưởng, là Thượng đế siêu nhiên, là Vĩnh hằng – là Trong sáng – là Thánh thiện… Cái Ta, cái Tôi lại cũng khác nhau. Có cái Ta thực và cái Ta ảo, cái tiền Ta và cái hậu Ta, cái Tôi cũng thế. Cái Ta mênh mông và cái Tôi chật hẹp, hữu hạn. Người và Ta – Ta và Người thể nhập với nhau (désintégration) trong những môi trường khác nhau, tình thế khác nhau và chúng sẽ trở thành một sức mạnh phi thường, chế ngự hết thảy trở lực thường xuyên hoặc bất ngờ của lý trí và vật chất. Cái mà ta gọi là trở lực xã hội, trở lực tự nhiên cũng thế.

Tôi thấy nhà sư nói cũng đã mệt, liền chen một câu:

– Chắc ngài đã được đọc cuốn sách ấy?

Ông khẽ gật đầu và tôi liền chuyển sang chuyện “vấn xá, cầu điền” (10) cho nhẹ nhàng đầu óc.

Nhà sư cho tôi biết quê quán ông ở xã Nam Thanh huyện Tiền Hải, thế phát đầu đà từ nhỏ và ra đi khỏi Thái Bình hồi Pháp tạm chiếm năm 1950, rồi đi Hà Nội, qua một số chùa, vào Sài Gòn, sang Ấn Độ nghiên cứu Phật học trong 6 năm và đã đi nhiều nước trên thế giới.

– Ngài có biết Suzuki không ?

– Có, tôi có dịp trao đổi với cụ về Thiền học. Bấy giờ cụ đã già, nay thì qua đời rồi!

– Ngài có trước tác và dịch thuật không?

– Có. Khoảng 12 tập sách và nhiều luận văn khác kể cả dịch phẩm.

– Ngài không có sách đọc có cảm thấy buồn không?

– Không. Sách trong Thiên nhiên – Tự nhiên, trong Cảnh ngộ, trong Suy tưởng, cổ nhân có “Hữu ngôn thư” và “Vô ngôn thư”. Bây giờ tôi đang đọc Vô ngôn thư. Thú lắm !

Nhà sư nói đến Vô ngôn thư khiến tôi cứ mỉm cười trong bụng, không hiểu cái “vô ngôn thư” mà ông nói đây, có ngụ ý liên hệ gì với “vô y phục” trong truyện “Hoàng đế cởi truồng” của H.C.Andersen không. Nếu có liên hệ dù là vô thức, vô thường thì thật là trớ trêu và thú vị nhường bao!

Câu chuyện giữa tôi với nhà sư chùa Vũ Đoài kéo dài gần 2 giờ đồng hồ. Lời kết thúc của ông khiến tôi nghẹn nơi cổ họng và thấy quý mến ông hơn giây phút làm quen ban đầu. Trước hết, ông là người con của đồng đất Thái Bình, quê hương của Bảng Đôn, của Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm với dáng vẻ, trình độ uyên bác truyền thống của người trí thức Sơn Nam xưa.

Ông là ai? Khi tôi chào tạm biệt ông, ra đến cửa gặp đồng chí Phó chủ tịch xã… mới biết ông là Thượng tọa Thích Quảng Độ, một nhà Phật học có tên tuổi. Thật là nhờ duyên văn tự mà được trò chuyện cùng ông.

Tôi cứ mỉm cười một mình. Sách “Độc thư lạc thú” của học giả đời Thanh Ngũ Chi Hiên trong mục “Di tình” chưa có trường hợp nào như hôm nay tôi gặp.

Âu cũng là một điều kỳ thú !


Hà Nội – Hè 1992

Nguyễn Tiến Đoàn

 

Ý kiến bạn đọc
02/03/202008:40
Khách
Tào lao... ngài Quảng Độ nào mà mới tháng 6.1982 đã có bộ râu dài ?
Và ngài Quảng Độ mà.. có thuốc có trà để mời khách ?
02/03/202008:39
Khách
Tào lao... ngài Quảng Độ nào mà mới tháng 6.1982 đã có bộ râu dài ?
Và ngài Quảng Độ mà.. có thuốc có trà để mời khách ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/06/2016(Xem: 30769)
ISBN: 978-0-9945548-4-0 , Ban Tổ Chức Tang Lễ và Môn Đồ Pháp Quyến chúng tôi trân trọng kính báo tin: ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH NHƯ HUỆ Pháp tự Giải Trí, Đạo hiệu Trí Thông, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41. - Nguyên Hội Chủ Giáo Hội PGVNTNHN tại UĐL-TTL (1999- 2015) - Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội; Phương Trượng Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc, Australia. Sinh ngày 02/04/1934 (Giáp Tuất) tại làng Cẩm Phô, TP Hội An, Tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Vừa thuận thế vô thường thâu thần an nhiên thị tịch vào lúc 9.25 tối ngày 23/06/2016 (nhằm ngày 19/5/Bính Thân) tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc. Thọ thế: 83 tuổi, 60 Hạ lạp
20/06/2016(Xem: 7938)
Hòa-Thượng pháp húy Nhựt-Thuận, Tự Thiện Lý hiệu Thích Bửu-Thắng thế danh Huỳnh-Văn-Giác., thuộc dòng LÂM-TẾ đời Gia Phổ thứ 41, là đệ tử của Tổ HỒNG-HOA. Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại Thị Xã GÒ-CÔNG Tỉnh TIỀN-GIANG. Thân phụ là cụ HUỲNH VĂN THIỆT, thân mẫu là cụ ĐỖ-THỊ-THẾ. Ngài là con trai độc nhứt trong gia đình khá giả, nên thuở thiếu thời Ngài rất mực phong lưu, cầm, kỳ, thi, họa đều tinh thông nhưng sở trường là môn thi phú. Nhân một dịp lên Sài-Gòn Ngài được xem vở tuồng về Lịch Sử Đức Phật, tâm hồn Ngài tự nhiên biến chuyển, thường suy tư trầm mặc, hình ảnh Đức Phật Thích Ca luôn xuất hiện trong tâm tưởng Ngài. Nhưng hột giống xa xưa vừa được khơi dậy thì lượng sóng của dòng đời cũng bắt đầu lôi cuốn. Theo quan niệm người xưa, quan trọng việc kế thừa hương quả. Năm 16 tuổi trên gương mặt của người thiếu niên còn rạng rỡ nét hồn nhiên thanh thản, Ngài vâng lệnh nghiêm đường tác thành hôn phối.Trong cuộc sống gia đình, tâm tư Ngài luôn luôn tư duy khắckhoải về cái gì ngoà
17/06/2016(Xem: 18221)
Ngài sinh ra để kế thế Sơ Tổ Nhân Tông Ngài hiện thân để khôi phục Thiền Tông Việt Nam Phật Giáo Việt Nam có Thiền Phái Trúc Lâm Rạng rỡ huy hoàng gần ngàn năm lịch sử Ngài sinh ra để chấn tích hưng long nghiệp Tổ Ngài hiện thân để giương trượng chống đỡ Thiền Môn Phật Giáo Việt Nam có sắc thái ửng son Có một chỗ đứng đường đường giữa thiên hà hoàn vũ
14/06/2016(Xem: 7228)
Sư Cô Diệu Huệ đã ra đi thật rồi! Tôi còn bàng hoàng như người vừa tỉnh mộng. Người ra đi chóng thế sao? Chiều hôm kia, khi cùng Thầy Trụ Trì và Tăng Đoàn Chùa Giác Ngộ đến với giây phút tạ từ và trong thời trợ niệm cho Sư Cô tôi thấy Sư Cô biểu hiện xúc động trên khuôn mặt và trong hơi thở gấp gáp. Sư Cô tuy không đủ sức nói hoặc cử động nhiều được nữa nhưng vẫn cảm nhận những âm thanh quen thuộc, cảnh sắc và ý thức được rằng chư Tăng đang vân tập để an ủi, chia sẻ, hộ niệm cho mình trong bước đăng trình. Sắc mặt Sư Cô vẫn còn tươi lắm, thế mà sau khi xong thời Kinh trợ niệm, tôi về phòng và đi công việc trong chốc lát, khi trở về Chùa Giác Ngộ thì hay tin rằng : Sư Cô đã viên tịch. Nhanh thật, mới vào bệnh viện được 2 hôm, hôm qua còn tỉnh táo nói năng nhắn nhủ được, hôm nay đã ra đi rồi…!
09/06/2016(Xem: 13407)
CÁO PHÓ Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Gia đình chúng con, chúng tôi vô cùng thương tiếc, kính báo tin cùng Chư Tôn Đức, Thân Bằng Quyến Thuộc và Bạn Hữu xa gần; Mẹ, Bà của chúng con, chúng tôi là: Chơn Linh Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Diệu Niệm Thế danh: NGUYỄN THỊ NỔI Sinh ngày 6/1/1925 tại Quảng Ngãi, Việt Nam Vãng sanh lúc 6am ngày mùng 5-5-Bính Thân (9-6-2016) Tại Melbourne, Úc Châu Thọ thế: 91 tuổi Chương Trình Tang Lễ: - Lễ nhập liệm, Phát tang: lúc 11am, Thứ Bảy:11/06/5/2016 tại Vãng Sanh Đường Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060, Phone:(03) 9357 3544 (sau lễ nhập liệm, lễ cầu siêu và phúng viếng đến 10.pm) - Lễ Cầu Siêu và Phúng viếng: 8am-10pm: Chủ Nhật 12/06/2016 tại Vãng Sanh Đường Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060, Phone:(03) 9357 3544 - Lễ Động Quan: lúc 1pm, Thứ Hai:13/06/2016 ,Linh Cữu được đưa đi hỏa táng tại Nghĩa Trang Fawkner, sau đó gia đình thỉnh Chơn Linh về làm lễ An Sàng và cúng thất tuần tại C
31/05/2016(Xem: 9173)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Phát-Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hộ -Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam; -Chứng minh Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Quảng Nam; -Viện chủ Tổ đình Long Tuyền, phường Thanh Hà, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. Do niên cao lạp trưởng, Trưởng lão Hòa thượng đã thâu thần viên tịch vào lúc 18giờ00 ngày 28 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 22 tháng 4 năm Bính Thân) tại Tổ đình Long Tuyền, phường Thanh Hà, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. * Trụ thế: 86 năm * Hạ lạp: 59 năm - Lễ nhập kim quan chính thức cử hành vào lúc 17giờ00, ngày 29 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 23 tháng 4 năm Bính Thân). - Kim quan Trưởng lão Hòa Thượng được tôn trí tại Tổ đình Long Tuyền, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam. - Lễ viếng bắt đầu từ lúc 07giờ00 ngày 30 tháng 5 năm 2016 (nhằm ngày 24 tháng 4 năm Bính Thân). - Lễ truy điệu được cử hành lúc 07giờ 30 ngày 02 tháng 6 năm 2016 (nhằm ngày 27 tháng 4 năm Bính Thân),
27/05/2016(Xem: 5607)
Khánh Hòa: Trang nghiêm lễ tưởng niệm lần thư 53 ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân Sáng nay, 20-4- Binh Thân (26-5-2916) chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa đã thành kính trang nghiêm cử hành Lễ tưởng niệm lần thứ 53 ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân và hiệp kỵ chư Thánh tử đạo tại lễ đài chùa Long Sơn - Văn phòng Ban trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa. Quang lâm chứng minh và tham dự có chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa: Đại lão HT.Thích Thiện Bình, Phó Pháp chủ HĐCM- Trưởng BTS GHPGVN tỉnh; chư Tôn Đức Tăng Ni Thường trực BTS GHPGVN tỉnh; Ban giám hiệu, Tăng Ni sinh trường Trung cấp Phật học Khánh Hòa, chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử các tự viện tại thành phố Nha Trang.
18/05/2016(Xem: 11185)
Không hiểu vì sao khi chú mất, tôi lại nghĩ mình cần phải viết điều gì đó cho chú, và chính tôi mới hợp nhất trong vai trò người viết này. Có lẽ vì trong quan hệ giữa tôi và chú có cả hai cực Dương và Âm thuần tịnh nhất để tạo nên một khối chân thực. Chính tôi là người chống và phê bình chú nhiều nhất và cũng chính tôi đã thấu được lòng yêu thương chân thành của chú đến người Việt ở đây và nỗi khát khao đem Phật pháp đến cho họ. Và tôi viết những dòng này cho chú.
17/05/2016(Xem: 11938)
Ngày Hoan Hỷ, Tập Văn Kỷ Niệm Khóa Huấn Luyện Trụ Trì năm Đinh Dậu 1957_HT Thích Thiện Hòa
01/05/2016(Xem: 8971)
HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG BỬU - Tự TRÍ BIỆN Hiệu MINH TRÍ - Đệ Nhị Trú Trì Tu Viện Nguyên Thiều - Giám luật – Giáo thọ Trường Trung Cấp Phật Học Bình Định Thôn Đại Lễ, Xã Phước Hiệp, Huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định. Qua thời gian lâm bệnh, Hòa thượng đã thuận thế vô thường thâu thần thị tịch vào lúc: 00 giờ 55 phút, ngày 01 tháng 05 năm 2016 (Nhằm ngày 25 tháng 03 năm Bính Thân), tại Tu viện Nguyên Thiều. Trụ thế 73 năm – Tăng lạp 44 năm. - Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 15 giờ 00 phút, ngày 01 tháng 05 năm 2016. (ngày 25 tháng 03 năm Bính Thân) - Lễ Viếng bắt đầu vào lúc 19 giờ ngày 01 tháng 05 đến 19 ngày 03 tháng 05 năm 2016 (từ 25-27 tháng 03 năm Bính Thân). - Lễ Nhập Bảo Tháp vào lúc 08 giờ 30 phút, ngày 04 tháng 05 năm 2016 (ngày 28 tháng 03 năm Bính Thân) trong khuôn viên Tu viện Nguyên Thiều.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]