Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lạy Mẹ (Tuyển tập thơ của Ôn Quảng Độ)

26/02/202007:26(Xem: 5516)
Lạy Mẹ (Tuyển tập thơ của Ôn Quảng Độ)
hoa-thuong-thich-quang-do
tho tu-ht thich quang do
LẠY MẸ

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Hơn hai mươi bảy năm trời cách biệt
Mắt Mẹ đã mờ vì nhớ thương con
Mẹ trông chờ bao ngày tháng mỏi mòn
Nhưng chỉ thấy mây bay và gió thoảng
Mẹ có ngờ đâu đời con phiêu lãng
Như cánh chim trời xiêu bạt bốn phương
Để giờ đây trong cảnh ngộ đau thương
Cảnh tù ngục tối tăm và buồn thảm
Con hối hận từ đáy sâu tâm khảm
Đạo thần hôn đã lỗi phận làm con
Tám mươi tuổi Mẹ có còn mạnh khỏe
Hay hạc vàng đã cất cánh bay cao
Cứ đêm đêm theo dõi những vì sao
Nhìn Bắc đẩu con tuôn trào nước mắt
Con quỳ xuống chắp hai tay trước ngực:
"Lạy Đức Từ Bi cứu độ Mẫu thân
Cõi Sa bà khi Mẹ đã mãn phần
Cảnh Cực Lạc là quê hương An Dưỡng"
Lòng chí thành nguyện cầu trong tâm tưởng
Tháng năm dài con chỉ biết thế thôi
Nghĩa thù ân chua xót lắm Mẹ ôi
Con lạy Mẹ trăm nghìn muôn ức lạy!
Sa Môn Thích Quảng Độ.

VN-Dai-Su-Hoa-Thuong-2

XUÂN NHỚ MẸ
(Sa Môn Thích Quảng Độ)

Mỗi lần xuân đến gợi thêm sầu
Con ở phương này Mẹ ở đâu
Nam Bắc đôi bờ dòng nước bạc
Trông vời bóng Mẹ khuất ngàn dâu

Con đi từ độ trăng tròn ấy
Trải mấy xuân rồi xuân viễn phương
Trên vạn nẻo đường con cất bước
Cõi lòng vương nặng mối sầu thương

Mái đầu Mẹ nhuộm mầu sương tuyết
Chồng chất đôi vai lớp tuổi đời
Con muốn thời gian ngừng đọng lại
Cho mùa xuân Mẹ mãi xanh tươi

Thời gian vẫn cứ lạnh lùng trôi
Hoa úa tàn phai trái chín mồi
Chua xót lòng con niềm hiếu đạo
Chân trời xa cách lệ tuôn rơi.

Giáp Thìn (1964)
Sa Môn Thích Quảng Độ


ht quang do

NGUYỆN CẦU
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Hỡi trời cao đất dày
Có thấu cho cảnh này
Mẹ tôi tội tình gì
Phải chết trong lưu đày

Trong cô đơn hiu quạnh
Trong buồn tủi đắng cay
Thôi cõi đời ác độc
Mẹ vĩnh biệt từ đây

Con nguyện cầu hồn Mẹ
Vãng sinh về phương Tây
Phật Di Đà tiếp dẫn
Chư Bồ Tát dìu tay

Trong hoa sen tinh khiết
Hồn Mẹ hóa sinh ngay
Vòng luân hồi chấm dứt
Vĩnh viễn được yên vui.

Đêm 14 tháng 12 Ất Sửu
(23 tháng 1 năm 1985)


ht quang do 1

MẤT CẢ CUỘC ĐỜI
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Xuân này tôi mất Mẹ rồi
Cũng là mất cả cuộc đời còn chi
Từ nay đoạn đường tôi đi
Qua hàng thông lạnh gió vi vu sầu

Một mình lặng lẽ cúi đầu
Quanh tôi tất cả nhuộm màu tóc tang
Bước đi nghĩa địa lan man
Chết rồi hay sống điêu tàn như nhau.

Sáng mồng 1 Tết Bính Dần (1985)
Ra thắp hương ngoài mộ.


ĐÊM PHẬT ĐẢN

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đêm Phật Đản ánh trăng rằm huyền ảo

Khắp không gian như tỏa ngát mùi hương

Tinh tú ba nghìn tụ lại một phương

Để chào đón đấng Siêu nhiên xuất thế

Nơi ngục thất tôi nhìn vào hiện thể

Khắp quanh tôi tràn ngập bóng vô minh

Từ xa xưa vì nghiệp lực chúng sinh

Đã tạo dựng nhân gian thành địa ngục

Tôi cười vang  trong đêm trường u tịch

Bốn bức xà lim như sụp đổ dưới chân tôi

Ôi đau thương đây thế giới Sa Bà 

Cực Lạc Niết Bàn cũng là đây hiện thực

Ánh Đạo rọi giữa lòng tôi sáng rực

Bao ưu phiền trút sạch tựa mây tan

Kia gông cùm xiềng xích cảnh trần gian

Trong khoảnh khắc cháy tan thành tro bụi

Tôi vận dụng sức "hiện tiền Tam muội"

Ngồi an nhiên như sen nở giữa than hồng

Thời gian trôi lặng lẽ đã hừng đông

Tôi bừng tỉnh thấy bình minh ló rạng

Thế giới ngày mai mùa xuân tươi sáng

Đạo từ bi nhuần thấm khắp năm châu.

15.4 Đinh Tỵ (1977)

Sa Môn Thích Quảng Độ  

ĐÊM XUẤT GIA
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Đêm nay kinh thành Tỳ la yên lặng
Mảnh trăng thượng tuần vừa khuất sau đồi
Khung trời mờ ảo ngàn sao tỏa ánh lung linh
Sóng Nô-ma cuồn cuộn chuyển mình
Gió Hy-mã ào ào rung động
Vạn vật đã chìm sâu trong mộng
Từ không trung tiếng vọng ngân xa
Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!
Giờ đã điểm, Ngày hãy ra đi tìm chân lý
Vì muôn loại sầu đau từ vạn kỷ
Đang đợi chờ và kỳ vọng thiết tha
Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!
Ngài có nghe chăng tiếng khóc than đang vang lên từ khắp mọi nhà
Vì những khổ đau của sống già bệnh chết
Tử biệt sinh ly đói nghèo rách nát
Áp bức đọa đày bởi hận thù và tham vọng cuồng si
Tất cả trông chờ một chuyến ra đi 
Một chuyến đi hùng tráng
Niềm ước mơ ở những ngày mai tươi sáng
Chỉ còn đêm nay thôi đừng tiếc chi
Tất Đạt Đa ơi Ngài hãy ra đi
Vì tất cả theo tiếng gọi đêm nay
Hỡi sóng Nô ma và gió ngàn Hy mã
Hãy gào to lên cho tiếng vọng vang xa
Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!
Giờ đã diểm thôi đừng tiếc chi
Cung điện ngọc ngà với Da Du và La Hầu La yêu quí
Ngày hãy ra đi vì muôn loại sầu đau từ vạn kỷ
Đang đợi chờ và kỳ vọng thiết tha
Tỳ la! Tỳ la! Ôi kinh thành hoa lệ
Thôi đừng buồn chi
Ngài ra đi cho muôn vàn thế hệ
Ngài ra đi vì tiếng gọi khổ đau
Của ngàn nay đến ngàn sau
Và sẽ trở về trong một ngày hào quang rực sáng
Tất cả kinh thành rồi sẽ rơi vào quên lãng
Nhưng hào quang Ngài sẽ sáng mãi với thời gian.
8.2 Mậu Ngọ (1978)
Sa Môn Thích Quảng Độ   
ĐÊM THÀNH ĐẠO
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)
Qua cửa gió xà lim vắng lạnh
Tôi đứng nhìn say đắm ánh sao mai
Tỏa lung linh sáng rực dưới vòm trời
Như báo hiệu bình minh đang trổi dậy
Sắp hết rồi ôi đêm dài tăm tối
Đang trùm lên cảnh vật một màu đen
Tôi im lặng hồi tường lại một đêm
Cùng giờ này hơn hai nghìn năm trăm năm trước
Dưới cội bồ đề mặt đất chuyển rung
Như hoan ca chào đón đấng Đại Hùng 
Vừa chiến thắng ma quân lần cuối
Ánh Đạo vàng bừng lên chói lọi
Đốt tiêu tan màn hắc ám vô minh
Những khổ đau thù hận ngục hình
Đã vây hãm chúng sinh từ muôn thuở
Tất cả, tất cả trong tôi đang thiêu hủy
Với tham sân và cuồng vọng si mê
Ánh sáng chan hòa trên nẻo đường về
Suốt cuộc đời hôm nay tôi thấy sao mai đẹp nhất
Xin cảm tạ hồng ân Đức Phật
Đã cho con giờ phút hôm nay
Giờ phút thiêng liêng Thành Đạo của Ngài
Con tin tưởng sẽ đi vào giòng thời gian bất tận
Bao sự nghiệp huy hoàng xây trên thù hận
Từ ngàn xưa dấu vết phủ rêu xanh.
18.12 Mậu Ngọ (1978)
Sa Môn Thích Quảng Độ   

(xem tiếp)


***

Đánh máy: Phật tử Niệm Đức Dương Nghiệp Huân



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/08/2012(Xem: 6788)
Kính bạch Sắc tứ Thập Tháp Tổ đình, Tân tịch trụ trì Thích Kế Châu, Đại lão Hòa thượng giác linh, tác đại chứng minh. Hôm nay, chúng tôi là những Pháp huynh, Pháp đệ thuộc dòng pháp Chúc Thánh, Tổ đình thứ hai Quảng Nam, và dòng pháp Thiền Tôn, Tổ đình thứ ba – Huế, tại Bình Định, và cũng là con cháu tám, chín đời dòng pháp Thập Tháp – Tổ đình thứ nhất, thuộc dòng pháp Thiên đồng Trung quốc tại Việt nam. Giờ này, tất cả chúng tôi đã vân tập đông đủ trước linh đài trang nghiêm, đau buồn này để làm lễ tiễn đưa kim quan Cố Đại lão Hòa thượng vào “BẢO THÁP MẬT TÀNG”, nghìn thu an nghỉ. Kính bạch Tân tịch Đại lão Hòa thượng giác linh! Trước hết, tại nơi đây, tất cả chúng tôi: Chí thành đến trước linh tòa, Cung kính dâng lên pháp cúng Kinh diên tán tụng,
04/08/2012(Xem: 6486)
Hòa thượng Thích Duy Lực, pháp danh Duy Lực, pháp tự Giác Khai, nối pháp thiền phái Lâm Tế. Ngài thế danh La Dũ, sinh ngày 5 tháng 5 năm Quý Hợi 1923, nhằm Trung Hoa Dân quốc thứ 12, tại làng Long Yên, huyện Phong Thuận, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; thân phụ là cụ ông La Xương, thân mẫu là cụ bà Lưu Thị. Ngài sinh trưởng trong một gia đình chuyên nghề nông trang, quy kính Tam bảo. Năm Mậu Dần 1938, Ngài được 16 tuổi, vừa học xong tiểu học thì phải lên đường theo cha sang Việt Nam sinh sống. Khi mới sang, gia đình Ngài dừng chân ở Cần Thơ lập nghiệp; trong những lúc rỗi rảnh Ngài thường tranh thủ tự học thên Hoa văn và quốc ngữ Việt Nam.
20/07/2012(Xem: 8101)
Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685–1768) là vị Tổ trung hưng thiền Lâm Tế tại Nhật Bản. Xa rời phương thức đánh hét cùng các ngôn ngữ siêu tuyệt, Ngài cố công diễn tả Thiền bằng ngôn ngữ dễ hiểu để tầng lớp bình dân có thể hiểu được.
19/07/2012(Xem: 5607)
Qua hàng ngàn năm Lịch sử của Dân tộc, hơn 2000 năm có mặt trên đất nước, Phật giáo đã đóng góp cho Tổ quốc một thời gian dài trên dưới 400 năm an bình thịnh vượng, chưa nói đến những thời đại riêng lẻ ngắn ngủi.
03/07/2012(Xem: 10284)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-10-1917), tại làng Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp).
30/06/2012(Xem: 8902)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Giác Lâm (1928 - 2012)
24/06/2012(Xem: 11725)
Kính lạy tôn dung Ngài Con xin tìm lại dấu xưa 39 năm, hai thế kỷ sao vừa Nín thở, lặng yên, đọc từng con chữ
12/06/2012(Xem: 4972)
Hòa thượng họ Đỗ, huý Châu Lân, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm năm người con, hai trai và ba gái; Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, và Ngài là thứ tư. Gia đình Ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi Ngài thi đậu bằng Yếu lược. Việc này chưa xảy ra ở vùng quê của Ngài nên đích thân ông Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương Ngài lúc bấy giờ.
11/06/2012(Xem: 5078)
Sự nghiệp thiền sư Tăng Hội rất lớn lao. Nhờ vào những trước tác của Thầy mà ta biết được hành tướng của sự thực tập thiền tại trung tâm Luy Lâu Việt Nam và tại trung tâm Kiến Nghiệp Trung Quốc ngày xưa. Tư tưởng thiền của thầy Tăng Hội là tư tưởng thiền Đại Thừa, đi tiên phong cho cả tư tưởng Hoa Nghiêm và Duy Thức Bao giờ các chùa Việt Nam sẽ thờ tổ Khương Tăng Hội Hiện nay chúng ta đang ở thế kỷ XXI với nền văn minh rực rỡ, với nhiều thiết bị hiện đại, với mức sống rất cao, với vốn hiểu biết rất thien su khuong tang hoi.jpg
10/06/2012(Xem: 13267)
Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam, là con thứ sáu trong một gia đình mười hai anh chị em. Thân sinh của Cố Trưởng Lão Hoà Thượng là cụ Trương Xuân Quảng, mất năm 1945, nguyên quán làng Kim Thành, quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, làm quan dưới thời Pháp thuộc, được bổ nhậm chức Kiểm Học (tương đương với Trưởng Ty Nha Học Chánh dưới thời các chính phủ quốc gia sau này) tỉnh Bình Thuận năm 1933 – 1939, và Đốc Học tỉnh Quảng Ngãi năm 1940 – 1945. Nhờ túc duyên với Phật Pháp, nên đến năm 1950, Cố Trưởng Lão Hoà Thượng đến Chù
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567