Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Mươi Năm Một Chặng Đường Tu

21/12/201908:36(Xem: 4383)
Bốn Mươi Năm Một Chặng Đường Tu

Phat thuyet phap 7
BỐN MƯƠI NĂM

MỘT CHẶNG ĐƯỜNG TU

Bài viết của HT Thích Như Điển

 

 

Nếu đời người có tuổi thọ 80 tuổi, thì 40 năm đi xuất gia và hành đạo trong khoảng thời gian lâu như thế; có nghĩa là đã hơn nữa đời người rồi. Bởi lẽ ít nhất cũng từ 8 đến 15, 17 tuổi mới có ý niệm đi xuất gia; ngoại trừ những người khi sinh ra đã có mặt tại chùa bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau thì không kể đến và đa phần là do sự phát tâm xuất gia của chính đương sự; nên mốc thời gian cần thiết để trở thành trưởng tử hay trưởng nữ của Như Lai, phải tính thêm một khoảng thời gian để dự định xuất gia lâu như vậy.

 

Người xuất gia từ thuở nhỏ gọi là đồng chơn nhập đạo và những ai đã lập gia đình rồi mới đi xuất gia thì trong chùa hay gọi là trung niên xuất gia hay bán thế xuất gia. Đức Phật và chư Tổ không phân biệt điều nầy, ngay cả nam hay nữ, bất cứ ai,  khi nào phát tâm, thì người ấy đều có thể tìm đến vị Bổn Sư mà mình đã quy y để trình thưa lên ý nguyện của mình. Nếu không có Bổn Sư thì phải tìm một vị y chỉ sư để nương tựa cho việc xuất gia và thọ giới sau nầy.Nếu tâm nguyện nầy được thành tựu; tức là người ấy sẽ mang vào đạo ý chí xuất trần thượng sĩ để mong cho mình và mọi người thoát ra khỏi chốn tử sinh tục lụy và sẽ dấn thân trên con đường mà các bậc Thánh đã đi; nên được gọi là Đại Trượng Phu.

 

Ni Sư Thích Nữ Giới Hương Trụ Trì chùa Hương Sen tại Perris, Nam California Hoa Kỳ chính là người đã dấn thân vào con đường cao thượng phước báu ấy trong 40 năm qua và năm nay các đệ tử của Ni Sư muốn ghi lại kỷ niệm một chặng đường đã đi qua; nên gom góp bài vở khắp nơi để làm thành một tập kỷ yếu của đời người. Như vậy cũng là một việc làm đáng tán dương; nên tôi đã tùy thuận để thể hiện việc nầy qua bài viết của mình. Ni Sư Giới Hương đã xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm tại Việt Nam từ năm 1979 và đến năm nay 2019 đúng 40 năm. Thời gian những thập niên 1980s ấy phải nói là thời gian lao tâm khổ tứ của các bậc Thầy mô phạm trong chốn thiền môn. Vì lẽ vấn đề khai báo chỗ ở, thường trú hay tạm trú của một tăng ni sinh trong các Phật Học Viện hay những Ni trường không phải là chuyện giản đơn chút nào và trách nhiệm đó thuộc về vị Trụ Trì cai quản ngôi chùa hay tự viện ấy. Từ chuyện đi học nội ngoại điển cho đến việc ăn uống, chấp tác việc chùa thuở ấy chắc ít ai dám hình dung lại được. Vì cái khổ ở ngoài thế gian đã quá nhiều rồi, thì lấy đâu người Phật Tử tại gia có thể hộ trì Tam Bảo một cách dễ dàng như bây giờ được. Do vậy chắc rằng những chùa viện ở Việt Nam thuở ấy cũng phải chịu chung số phận với quần chúng Phật Tử; nên tôi tin rằng việc phấn đấu để xuất gia và tu học trong thời gian 1980s ấy quả là người phải có một ý chí phi thường mới có thể vượt qua được những chướng duyên trở ngại ở trong Đạo cũng như ngoài Đời.

 

Tôi chỉ biết Ni Sư khi tôi sang Ấn Độ để đi hành hương các Thánh Tích tại Bồ Đề Đạo Tràng và những nơi khác. Hầu như chưa được biết riêng lý lịch của từng vị, trước khi họ đến trung tâm tu học Viên Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng để gặp tôi. Mục đích chính trong thời gian từ năm 1994 đến năm 2011 của tôi là trợ giúp vấn đề học bỗng cho các Tăng Ni Sinh đang du học tại Ấn Độ. Bởi lẽ tôi đã trải qua thời gian du học tại Nhật Bải từ đầu thập niên 70; nên tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của các Tăng Ni Sinh lúc bấy giờ và tôi trợ giúp như thế không có bất cứ một điều kiện nào hết, miễn sao quý Thầy Cô cố gắng học thành tài, ra trường về lo việc Đạo cho Thầy Tổ mình hay tiếp nối con đường giáo dục cũng như hoằng pháp lợi sanh, là quá đủ rồi. Do vậy suốt trong 19 năm như thế đã có 187 Tăng Ni sinh Việt Nam du học tại Ấn Độ đã đến với tôi. Ban đầu họ nhờ Thượng Tọa Hạnh Chánh giới thiệu; nhưng sau đó vài năm thì họ tự động đến gặp tôi để trình bày nguyện vọng của mình, khi nghe tin tôi sang Ấn Độ để hành thương và gặp gỡ các Tăng Ni sinh tại đó. Trong số nầy có Ni Sư Thích Nữ Giới Hương. Dĩ nhiên là mỗi vị đến với tôi đều xưng Pháp Hiệu và cho biết đệ tử của ai, cần nhu cầu hằng tháng bao nhiêu cũng như đang học ở cấp bậc nào như: cử nhân, cao học hay tiến  sĩ. Để từ đó tôi sẽ nhờ Quý Thầy, Cô giúp tôi thể hiện tinh thần trợ cấp nầy. Ban đầu thì có Thầy Hạnh Chánh và sau đó thì có Thầy Như Tú.  Trong số 187 vị xuất gia ấy, không biết ngày nay còn lại bao nhiêu vị đang tu học, hành trì? Bao nhiêu người đã hoàn tục?Bao nhiêu người đang đứng lớp dạy học trên các bực giảng của Đại Học, Trung Học  ở trong cũng như ngoài nước? hay có bao nhiêu người đã ra đi vì bịnh hoạn hay những nhân duyên khác? Kết quả nầy tôi không có chính xác; nhưng hồ sơ tôi hiện đang lưu giữ ở văn phòng của chùa Viên Giác Hannover là có 132 vị đã ra học vị Tiến Sĩ và những vị còn lại là Cao Học hay cử nhân. Rất tiếc rằng từ năm 2011 tôi không tiếp tục chương trình cấp phát học bỗng nầy nữa, vì lẽ 19 năm trợ giúp như thế cũng là một đoạn đường khá dài rồi. Vả lại tuổi tôi cũng đã lớn; nên dành nhiều thời gian rãnh để dịch kinh, viết sách cũng như giảng pháp đó đây và cũng để cho thế hệ đi sau nối tiếp con đường của mình đã đi; nên tôi đã chấm dứt việc làm nầy kể từ thời điểm ấy.

 

Quý Thầy, Cô khi trình luận án Tiến Sĩ hay Cao Học xong, thường hay gửi tặng tôi một quyển. Do vậy tại trung tâm Tu Học Viên Giác ở Bồ Đề Đạo Tràng cũng như tại thư viện chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi đã lưu giữ lại hầu hết những luận án nầy của Quý Thầy, Cô đã tặng tôi, trong đó có luận án Tiến Sĩ của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương. Tôi đọc đã lâu và nội dung của luận án Ni Sư đã viết bằng tiếng Anh về “Boddhisattva and Sunyata in the Early and Developed Buddhist Traditions.” Quyển luận án nầy sau được dịch sang tiếng Việt “Bồ-tát và Tánh Không Trong Kinh Tạng Pali và Đại Thừa” và tôi cũng đã có nhân duyên viết lời tựa cho việc xuất bản tiếng Việt ở trong cũng như ngoài nước. Ni Sư Giới Hương là một vị Ni rất thích hoạt động trong vấn đề văn chương, giáo dục, văn hóa, từ thiện giúp đỡ người cơ nhở v.v… nên đã viết, sáng tác và chuyển dịch hơn 40 tác phẩm và nhạc, thơ, văn. Trong đó phải kể đến những quyển như: Ban Mai Xứ Ấn, Vườn Nai-Chiếc Nôi Phật Giáo. Mmời xem tủ sách Bảo Anh Lạc http://www.huongsentemple.com/index.php/kinh-sach/tu-sach-bao-anh-lac. Ai đọc đến các tác phẩm này và khám phá website sẽ nhiều thú vị và cống hiến của Ni sư. Ni Sư cũng đã đi vào trong những nhà tù ở Hoa Kỳ để giúp cho những người đang ở đây thực tập thiền tọa cũng như giảng những bài pháp cho những tù nhân nghe, nhằm cải đổi đời sống tâm linh của họ (mời xem cuốn: Nữ Tu và Tù Nhân Hoa Kỳ). Ngoài ra, Ni Sư cũng đã về lại Việt Nam để giảng dạy tại trường Đại Học Phật Giáo Sài Gòn trong nhiều năm tháng qua, cũng đã gặt hái được nhiều thành quả nhất định qua việc giảng  dạy nầy. Đồng thời Ni Sư cũng thực hiện việc đào tạo chư Ni cho tương lai cũng giống như Sư Phụ Hải Triều Âm của mình đã tế độ cho cả ngàn ni chúng như vậy. Đây chính là cách báo Phật ân đức cùng Thầy Tổ cao cả nhất trong cuộc đời hành đạo của một người xuất gia.

 

Việc học cho có bằng cấp là điều rất cần thiết đối với  người xuất gia trong hiện tại. Bởi lẽ chúng ta đang sống tại ngoại quốc, nếu thiếu kiến thức căn bản về Phậc Học và ngoại ngữ thì không thể nào với tới mục đích của mình là mang đạo vào đời cho những người địa phương; nơi mà mình đang sinh sống được. Đồng thời việc tu càng quan trọng hơn như thế nữa. Bởi lẽ nếu một Tăng Ni Sinh chỉ có bằng cấp, đi diễn giảng quanh năm suốt tháng mà không hành trì, hạ thủ công phu  thì chẳng khác nào là một học giả, giống như bao nhiêu học giả khác đang ở ngoài đời giảng dạy tại các trường Đại Học mà thôi. Cho nên với người xuất gia; nên quan tâm nhiều hơn nữa về vấn đề hành trì nầy và Ni Sư Giới Hương đang thể hiện việc nầy qua việc nuôi dạy chúng cũng như công phu bái sám, thiền tập hằng ngày.Đây chính là nét đẹp của những bậc xuất trần thượng sĩ vậy.Việc giải thóat sanh tử vẫn còn xa trong cuộc sống nầy; nhưng đứng trước sự tử sinh và bao nhiêu tao loạn của cuộc đời mà người xuất gia làm chủ được chính mình, thì đó cũng là một sự giải thoát tương đối trong cuộc đời nầy vậy.

Giáo Sư Tâm Thụy Võ Văn Tường, người nhiếp ảnh nhiều ngôi chùa nhất của Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước đã cho in ấn tác phẩm chùa Việt Nam Hải Ngoại tập I bằng 4 ngôn ngữ: Việt, Anh, Hoa và Nhật ngữ rất có giá trị. Đến quyển thứ II thì Giáo Sư đã nhờ Ni Sư Giới Hương biên tập Anh Văn của tất cả những hạng mục trong hai quyển sách Chùa Việt Nam Hải Ngoại (Overseas Vietnamese Buddhist Temples) và Việt Nam Danh Lam Cổ Tự (The Famous Ancient Buddhist Temples in Vietnam).Thượng Tọa Nhật Từ ở Việt Nam và Thượng Tọa Nguyên Tạng ở Úc đã giảo chánh lại trước khi xuất bản. Riêng bản dịch ra Nhật ngữ và Hoa ngữ thì tôi đã đảm nhận việc giảo chánh nầy. Sau đó Cô Thiện Tâm Suzan ở Bosten nhờ tôi giới thiệu Ni Sư Giới Hương dịch một quyển sách Anh Văn của Đức Đạt Lai Lạt Ma “Buddhism: One Teacher Many Traditions” giảng ra Việt ngữ “Phật Giáo-Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống”, Thầy Đạo Tĩnh tại Atlanta giảo chính lại và tôi cố gắng để soát lại cách dịch cũng như ý tưởng của câu văn và những danh từ Phật Học đã được dịch sang Việt ngữ. Ngoài ra, tôi cũng có nhân duyên viết giới thiệu cho Ni sư nhiều sách (tiếng Việt và Anh) khác được xuất bản trong và ngoài nước như Quan Âm Quảng Trần, Nếp sống  Tỉnh Thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma, A Hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền não (2 tập), Pháp Ngữ của Kinh Kim Cang, Luân Hồi trong Kinh Lăng Nghiêm, vv…

Do tôi và Ni sư Giới Hương đã có nhiều cơ hội để trao đổi qua lại về phương diện dịch thuật va viết lách nầy; nên tôi thấy rằng: văn phong của Ni Sư viết hay dịch rất trong sáng, dễ hiểu, có ý tưởng sáng tạo mới, dầu cho đó là Trung Quán Luận hay Tánh Không, dầu viết bằng tiếng Anh hay tiếng Việt. Do vậy, nhiều khi tôi nghĩ rằng Việt Nam chúng ta đã có những bậc Ni Lưu tiền bối như Ni Trưởng Thích Nữ Như Thanh, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không, Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải v.v… thì nay Phật Giáo Việt Nam tại ngoại quốc đã đương và sẽ có thêm những bậc Ni Lưu như Ni Sư Thích Nữ Giới Hương thì chắc rằng những người xuất gia nữ nói riêng và nói chung là Phật Tử Việt Nam sẽ được nhờ.

Viết để khuyến khích và trợ duyên cho cuốn sánh “40 Năm Tu Học Và Hoằng Pháp của Ni Sư Giới Hương” như thế nầy, tôi thấy là việc làm rất cần thiết, vì lẽ khi tác giả cho ra đời một tác phẩm nào đó mà độc giả lơ là, chẳng quan tâm thì cũng phụ ân người đã có tấm lòng cho Đạo, muốn trang trải hạt giống từ bi và trí tuệ của mình cho Đời và cho Đạo; khiến cho người chủ trương nhiều khi cũng tiến thóai lưỡng nan. Do vậy, tôi viết những lời nầy trang trọng gửi đến Ni Sư Giới Hương để kỷ niệm 40 năm xuất gia hành đạo của mình cũng là trực và gián tiếp tùy hỷ những việc làm của Ni Sư lâu nay vậy, đồng thời tôi cũng mong rằng có nhiều bậc Ni Sư lỗi lạc khác cũng nên đóng góp phần mình vào ngôi nhà Phật Giáo chung nầy. Có như thế văn hóa, văn học, văn chương cũng như tư tưởng Phật Học mới có thể dễ dàng đi vào lòng người hơn.

 

Xin nguyện cầu cho Ni Sư trong những ngày còn lại trong cuộc đời nầy có thể là 20 năm, 30 năm hay 40 năm sau nữa Ni Sư vẫn còn sáng tác, giảng dạy nhiều hơn nữa, thì người xuất gia cũng như tại gia sẽ không bao giờ quên hình ảnh cũa Ni Sư trong thế giới nầy.

 

Viết xong vào ngày 18 tháng 11 năm 2019

tại Tu Viện Viên Đức, thuộc miền Nam nước Đức,

Thích Như Điển

[email protected] 

 

 ht nhu dien (1)

Hòa Thượng ban pháp thoại tại sân trước Chùa Hương Sen

ht nhu dien (2)
                  Trì Tụng Thần chú Lăng Nghiêm
 
ht nhu dien (3)
Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác
Cùng tăng đoàn viếng thăm Chùa Hương sen ngày 12/04/2018
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2017(Xem: 21221)
Sư Trưởng pháp húy Hải Triều Âm, tự Đại Thành, hiệu Bác Tế Từ Hòa, thế danh Nguyễn Thị Ni, sinh năm 1920 tại tỉnh Hà Đông, nay thuộc thủ đô Hà Nội. Thân phụ là một công chức người Pháp, cụ ông Etienne Catallan. Thân mẫu là một y sĩ người Việt, cụ bà Nguyễn Thị Đắc. Vì thế Sư Trưởng còn có tên thế tục tiếng Pháp là Eugénie Catallan.
20/05/2017(Xem: 6716)
Gần như một quy luật tất yếu khi nói đến Hòa Thượng Lê Khánh Hòa ( 1877 - 1947 ) ( Tổ Khánh Hòa - Ngài) phải đề cập đến phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX . Cả một cuộc đời dấn thân trên lộ trình tiến tu giải thoát, luôn nặng gánh ưu tư cho tiền đồ Phật giáo trước mối suy vong song hành cùng vận mệnh dân tộc dưới gót giày xâm lược của giặc Pháp. Là một tăng sĩ với trọng trách "sứ giã Như Lai", Tổ Khánh Hòa đã sớm nhận thức rõ trách nhiệm cao cả ấy và vận dụng đạo đức, năng lực bản thân tữ mình thắp lên ngọn đuốc tiên phong, vén màn đêm dày đặc, bước đi từng bước nhọc nhằn, khó khăn ban đầu để tạo nên một luồng gió chấn hưng mang vô vàn lợi lạc cho Phật giáo mà cho đến tận hôm nay sử sách vẫn còn ghi đậm những dòng chữ vàng son óng ánh chưa hề phai nhạt.
22/04/2017(Xem: 9120)
CT HTB số 205 cho thứ 7 ngày 22/4/2017 Chủ đề: Nhân ngày lễ Phật Đản ôn lại Tổ sư Thiền của Phật giáo Việt Nam. Thành viên thực hiện: Lâm Như Tạng, Lê Tâm.
19/04/2017(Xem: 6128)
Đã 42 năm sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chỉ riêng tên tuổi Thích Trí Quang đã gây ra rất nhiều tranh cãi. (1) Có nhiều nhãn hiệu gán cho ông: với một số người Việt chống cộng hoặc còn suy tôn ông Diệm thì cả quyết Thích Trí Quang là cộng sản đội lốt tu hành hoạt động với sự chỉ đạo của Hà Nội; nhưng ngay với giới chức cộng sản cũng đã từng coi Trí Quang là một loại CIA chiến lược; còn
15/04/2017(Xem: 8134)
Thiền Sư Pháp Loa với công trình văn hóa đời Trần
01/04/2017(Xem: 14607)
Trọn một ngày làm nhà tu hành – ăn như sư, ngủ cạnh sư, thiền và đọc kinh cùng sư, lao động cùng sư. Có những lúc đã cảm thấy phát điên về sự chậm rãi trong hoạt động, sự khắc khổ trong cuộc sống. Nhưng cũng ngộ ra nhiều điều! Và 24 giờ đó quả là kinh nghiệm đặc biệt trong đời làm báo. Vào những tháng đông đầu năm 1998, khi đang làm việc cho đài phát thanh NHK của Nhật Bản, tôi đề xuất chủ đề tôn giáo với mục đích giới thiệu đầy đủ hơn về các đạo tồn tại ở Nhật cho thính giả Việt Nam, bên cạnh Thần đạo đã được nói đến quá nhiều. Nhưng việc đi thực tế trong lĩnh vực này không đơn giản. May được một đồng nghiệp người Nhật tích cực tìm kiếm và phát hiện một ngôi chùa có thu nhận người nước ngoài. Mọi công việc thu xếp qua điện thoại và… email do người bạn Nhật đảm trách, và đúng ngày hẹn tôi khoác balô lên đường.
24/03/2017(Xem: 8563)
Theo Dương Lịch, 23 tháng Ba là ngày giỗ của Huynh Trưởng Tâm Huệ Cao Chánh Hựu. Tôi chợt nhớ đến bài thơ viết để tiễn biệt anh và cũng để nhắc nhở các anh chị em Gia Đình Phật Tử khắp nơi biết ngày anh ra đi. Bài thơ khá dài và kết luận bằng câu “Và đừng xa nhau nữa”.
18/03/2017(Xem: 7374)
Di cốt của vị thiền sư đã khai sáng ra dòng thiền Lâm Tế - Liễu Quán ở đàng Trong - dòng thiền thứ hai sau thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được nhập vào một ngôi tháp cổ kính ở xứ Huế. Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) là người đã khai sáng ra chi phái Thiền mới (Thiền phái Liễu Quán), mang đậm phong cách của Văn hóa phật giáo Việt Nam còn truyền lại đến ngày nay. Sau khi viên tịch, di cốt của thiền sư được nhập vào bảo tháp thuộc vùng rừng thông của làng An Cựu xưa (Thừa Thiên Huế). Đây là một ngôi tháp đẹp, cổ kính và uy nghiêm. Nhiều du khách lần đầu đến Huế, nếu không biết thì có thể nhầm đây là lăng tẩm của một vua chúa nào đó của triều Nguyễn bởi quy mô xây dựng, kiến trúc và địa thế phong thủy của bảo tháp.
06/03/2017(Xem: 7133)
Nhân lễ húy nhật lần thứ 18 Sư Bà Thích Đàm Lựu, vị Thầy sáng lập chùa Đức Viên vào năm 1980 tại thành phố San Jose, Hoa Kỳ; chùa Đức Viên đã tổ chức khóa niệm Phật báo ân trong hai tuần, từ ngày 18 tháng 02 đến ngày 04 tháng 3 năm 2017. Buổi lễ tưởng niệm chính thức được tổ chức vào sáng ngày 04 tháng 3 năm 2017. Đặc biệt, vào tối ngày 03 tháng 3 năm 2017, chùa đã tổ chức đêm đốt nến tưởng niệm Sư Bà, vị Thầy kính yêu của Ni chúng. Đêm huyền diệu với tiếng tụng kinh cầu nguyện, những lời tâm sự bên những ngọn nến lung linh, những giọt nước mắt chảy dài trên má chư Ni và Phật tử. Buổi lễ diễn ra trang nghiêm, thành kính, tràn đầy cảm xúc, lòng kính thương vô biên Sư Bà tọa chủ!
04/03/2017(Xem: 10071)
Xuất gia là một đại nguyện. Giữ được Tâm trong không thối chuyển là một đại duyên. Tại Việt Nam hôm nay, nếu lấy tròn số sẽ có 45.000 tu sĩ Phật giáo với dân số 100.000.000 người thì trung bình cứ 2.200 người mới có một người đi tu theo đạo Phật. Tại Hoa Kỳ hôm nay, ước lượng có 1.200 tu sĩ Phật giáo trên tổng số 2.000.000 người Việt thì trung bình cứ 1.600 người có một tu sĩ Phật giáo. Con số tự nó không đánh giá chân xác được tình trạng tôn giáo và chiều sâu hành đạo của các tu sĩ thuộc tôn giáo đó. Nhưng ít nhiều phản ánh được những nét tổng thể của mối quan hệ giữa quần chúng và tổ chức tôn giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]