Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Thích Trí Quang Không Phải và Không Thể Là Cộng Sản

29/11/201918:08(Xem: 8657)
Hòa thượng Thích Trí Quang Không Phải và Không Thể Là Cộng Sản
Chan dung HT Thich Tri QuangHòa thượng Thích Trí Quang
Không Phải và Không Thể Là Cộng Sản
(dựa theo tài liệu của Ban Tổng Kết Chiến Tranh của Cộng Sản Việt Nam)

Bùi Hồng Lĩnh
17/11/2019

 

 

ht tri quang (1)(Trích trong quyển “Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử của PGVN – tác giả Nam Thành - Viện Hoá Đạo xuât bản,1964)

https://thuvienhoasen.org/images/file/DsjMXp1G0QgQAFAw/cuocdautranhlichsu-pgvn.pdf

 

 

Hòa thượng Thích Trí Quang đã viên tịch lúc 9 giờ 45 ngày 8 tháng 11 năm 2019 và theo di huấn của cố Hòa thượng, ngài muốn được liệm và đưa ra xe tang rồi đến nơi hỏa thiêu trong vòng 6 tiếng sau khi ngài viên tịch. Mọi lễ sau đó không thông báo cho ai và không mời ai.

 

Di huấn của cố Hòa thượng Thích Trí Quang đã ngầm nói lên một điều quan trọng, là ngài không muốn có sự tham dự của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập năm 1981; hay nói khác hơn, ngài không muốn được xưng tụng bởi những người mà ngài đã không hợp tác sau tháng 4 năm 1975(kèm theo cuối bài là Di Huấn của cố Hòa thượng Thích Trí Quang).

 

Để tưởng niệm cố Hòa thượng Thích Trí Quang và những vị chân tu đã hiến mình cho đạo pháp, chúng tôi xin viết về một câu hỏi mà cho đến nay, vẫn có người còn thắc mắc, đó là: Hòa thượng Thích Trí Quang có phải là cộng sản hay không?

 

Bài viết này cố gắng đưa ra câu trả lời cho câu hỏi đó, và tài liệu để chứng minh cho câu trả lời của tác giả là những xác nhận của cộng sản Việt Nam trong quyển sách có tựa đề là “Lịch Sử Sài Gòn - Chợ Lớn – Gia Định Kháng Chiến (1945-1975) (từ đây gọi là LSSGCLGĐKC), do Nhà Xuất bản Chính Trị Quốc Gia (CSVN) phát hành năm 1994, tái bản năm 2015. Có một bản online trong website quansuvn.net.

 

Tập tài liệu này đã được ghi lại bởi nhiều tác giả trong trên dưới 10 năm tìm hiểu, do Ban Tổng Kết Chiến Tranh “chỉ đạo”, Link: https://www.quansuvn.net/index.php?topic=24069.0   với lời giới thiệu về sự quan trọng của những dữ kiện lịch sử này của Võ Trần Trí, Ủy viên Bộ Chính Trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh ký trong tháng 7, 1994, trích dẫn dưới đây:

 

ht tri quang (2)

Link: https://www.quansuvn.net/index.php?topic=24069.0

 

Một phần của tài liệu này ghi lại sự tham dự, trà trộn và khích động của cộng sản Việt Nam trong cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963. Tài liệu viết như sau:

 

ht tri quang (3)

(chữ tô vàng là của tác giả) Link:

https://www.quansuvn.net/index.php?topic=24069.90

 

Với sự xác nhận và công nhận “vì ta không gây được ảnh hưởng ở Viện Hoá Đạo”, CSVN đã nêu lên cái “mốc thời gian của lịch sử” khi mà cho đến lúc đó, họ đã không thẩm nhập được vào cuộc tranh đấu của Phật giáo Việt Nam. Trước khi viết tiếp về câu trả lời, tác giả xin viết qua về cuộc tranh đấu của Phật giáo Việt Nam, với những thời điểm quan trọng:

 

Phật giáo ngoài Huế đã treo cờ để mừng đón Phật Đản đầu tháng 5 năm 1963. Chính quyền điạ phương theo lệnh của trung ương (Sài Gòn) đã không cho treo cờ và Phật tử đã tụ tập tại đài phát thanh Huế đễ nghephát thanh lại bài nói chuyện của Thượng toạ Thích Trí Quang, Hội trưởng Hội Phật giáo Trung Việt đã thâu lại buổì sáng trong ngày tại chùa Từ Đàm buổi chiều ngày Phật Đản 8 tháng 5, 1963.Nhưng bài nói chuyện này đã không được phát lại lý do là máy phát thanh bị hư. Phật tử tụ họp càng đông lên đến 10,000 người. Một cuộc đàn áp đã diễn ra tại nơi này sau đó và 8 Phật tử đã chết, 14 người bị thương. Trong nhiều ngày liên tiếp, Phật tử ngoài Huế đã liên tục biểu tình đưa ra 5 nguyện vọng, trong đó có nguyện vọng đòi hỏi tự do và bình đẳng tôn giáo .

 

ht tri quang (4)

(Trích trong quyển “Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử của PGVN – tác giả Nam Thành - Viện Hoá Đạo xuât bản,1964)

 

Đến ngày 15 tháng 5 năm 1963 một phái đoàn đại diện Phật giáo được gặp Tổng thống Ngô Đình Diệm để đạo đạt 5 nguyện vọng hầu giải quyết vấn đề. Ngày 16/5/1963 Phật giáo tổ chức họp báo bắt đầu cuộc tranh đấu vì buổi họp ngày 15/5/1963 đã không có kết quả. Phong trào tranh đấu lên cao điểm và thu hút dư luận thế giới khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11/6/1963 để phản đối sự bất bình đẳng tôn giáo và hiến mình cho cuộc tranh đấu của Phật giáo. Ngày 1 tháng 11 năm1963 một số tướng lãnh đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm trong khi cuộc tranh đấu đang tiếp diễn. Đã không có sự liên hệ giữa Phật giáo và các tướng lãnh trong cuộc đảo chánh này. Cuộc tranh đấu của Phật giáo chấm dứt sau ngày đảo chánh đó và hai tháng sau, một tổ chức Phật giáo ra đời với tên gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), gồm 11 giáo phái và tổ chức Phật giáo sau vĩ tuyến 17 và đại diện của Phật giáo (di cư) miên Bắc đồng ký và ban hành Hiến Chương GHPGVNTH ngày 4 tháng 1 năm 1964.

 

Nội dung của Hiến Chương GHPGVNTN có điều 14 như sau:

 

on tri quang 3

(Trích Hiến Chương GHPGVNTN – 4 tháng 1, 1964)

 

Trở về với sự công nhận của CSVN về ảnh hưởng của họ trong cuộc tranh đấu của Phật giáo, “vì ta không gây được ảnh hưởng ở Viện Hoá Đạo”, tác giả có nhận định như sau:”Viện Hóa Đạo” là một cơ cấu tổ chức của GHPGVNTN, chỉ ra đời và có danh xưng sau ngày 4 tháng 1, 1964 (theo như Hiến Chương của GHPGVNTN) và như vậy CSVN đã không xâm nhập, không trà trộn và không có ảnh hưởng đến những vị lãnh đạo của Phật giáo Việt Nam cho đến ít nhất sau ngày có Viện Hóa Đạo. Nếu có sự trà trộn xâm nhập thì chỉ là những hoạt động bên ngoài khi CSVN trà trộn vào trong quần chúng Phật tử trong những cuộc tranh đấu biểu tình. Chúng ta cũng chưa đọc được một biểu ngữ, một tờ truyền đơn, một hình ảnh nào chứng minh là CSVN đã có mặt trong cuộc tranh đấu này khi họ trà trộn vào quần chúng, trước ngày tướng lãnh đảo chánh 1/11/1963.

 

Một số tài liệu sau này cho rằng CSVN đã nhúng tay vào sự tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức bằng cách gài người vào tẩm xăng và châm lửa vào áo cà sa của Hòa thượng Thích Quảng Đức cũng trở thành không thật với sự công nhận nêu trên. Đã không trà trộn và xâm nhập vào tổ chức Phật giáo cho đến ít nhất tháng 1, 1964 thì làm sao CSVN có thể gài người vào ngày 11 tháng 6, 1963 khi xẩy ra sự tự thiêu này.

 

Cũng trong tài liệu LSSGCLGĐKC , trang 11 (online), CSVN đã nhận là họ đã không thành công trong sự xâm nhập trà trộn và sách động dân chúng Sài Gòn trong những tháng biến động 1963. Tài liệu viết: 

 

ht tri quang (6)

Link: https://www.quansuvn.net/index.php?topic=24069.100

 

Ban Tổng Kết Chiến Tranh dưới sự chỉ đạo của đảng CSVN, qua tập tài liệu LSSGCLGĐKH đã “chứng minh” là những vị lãnh đạo của cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam trước năm 1964 không phải là cộng sản hay cộng sản nằm vùng. Những vị đó là: Thích Tịnh Khiết, Thích Tâm Châu, Thích Trí Quang, Thích Thiện Hoa, Thích Đức Nghiệp, Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, Thích Giác Đức, Thích Hộ Giác, Thích Thanh Kiểm, Thích Tâm Giác, Thích Huyền Quang và những vị lãnh đạo 11 giáo phái và hội đoàn ký tên trong Hiến Chương GHPGVNTN.  Những tu sĩ Phật giáo kể trên đã không hợp tác với nhà cầm quyền CSVN từ sau năm 1975 và với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh) thành lập năm 1981. (tác giả không có tin tức sau 1975 của một số vị trong 11 hội đoàn ký tên vào Hiến Chương GHPGVNTN nên không thể xác nhận 100% về lập trường của 11 vị ký trong Hiến Chương 1964).

 

Nói tóm lại, người ta có thể ngụy tạo ra những tài liệu, văn kiện và hình ảnh để chứng minh là các vị lãnh đạo của cuộc tranh đấu của Phật giáo cho đến khi có đảo chánh ngày 1 tháng 11, 1963 là cộng sản hay cộng sản nằm vùng nhưng người ta không thể phủ nhận sự xác nhận của CSVN, qua Ban Tổng Kết Chiên Tranh là CSVN là những vị lãnh đạo này đã không bị ảnh hưởng của CSVN. Hay nói cách khác, CSVN đã không xâm nhập được vào hàng ngũ lãnh đạo của Phật giáo Việt Nam.

 

Hòa thượng Thích Trí Quang giữ gìn khí tiết sau 1975 và vẫn còn cho đến sau khi qua đời qua di huấn của Hòa thượng. Hòa thượng Thích Quảng Độ, đương kim Tăng Thống GHPGVNTN cũng quyết định không hợp tác với CSVN cho đến hơi thở cuối cùng. Phật giáo Việt Nam không cộng sản sẽ đi về đâu?

 

cao bach tang le duc truong lao ht tri quang


Di Huấn của cố Hòa thượng Thích Trí Quang

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6616)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6915)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 894)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33874)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4717)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4665)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4623)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4587)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4912)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4624)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567