Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Thích Trí Quang - 'người chấn hưng Phật giáo thời chiến’

16/11/201913:19(Xem: 8113)
Hòa thượng Thích Trí Quang - 'người chấn hưng Phật giáo thời chiến’

ht thich tri quang-4

Hơn hết và trước hết tất cả, Thích Trí Quang là một người "dấn thân cho đạo pháp", một người "cứu độ Phật giáo" và "một nhà tu hành chuẩn mực", một nhà nghiên cứu triết học và Phật giáo nói với BBC News Tiếng Việt từ Việt Nam khi bình luận về vai trò, đóng góp và di sản của vị Đại lão Hòa thượng vừa mới qua đời ở Huế, hưởng thọ 97 tuổi.


Trước hết, về đóng góp, ảnh hưởng và di sản được coi là quan trọng nhất của Hòa thượng Trí Quang (1923-2019), nhân vật lịch sử trong thời kỳ cuộc chiến tranh Việt Nam từng được báo Mỹ gọi là "người làm rung chuyển nước Mỹ" trong những năm thập niên 1960, Tiến sỹ Triết học Thái Kim Lan nói:

 

 

"Rút cục lại, bỏ ngoài những vấn đề khác, thì tôi nghĩ, Hòa thượng Thích Chí Quang chỉ một lòng vì đạo mà thôi.

"Và ảnh hưởng của ngài ở trên lãnh vực văn hóa, cũng như là đạo đức người ta chưa thấy được, nhưng mà có lẽ khi ngài viên tịch rồi, thì những tác phẩm của ngài để lại cho đời sau sẽ nói lên một lần nữa vai trò của ngài ở trong Phật giáo.

"Từ khi ước nguyện chấn hưng Phật giáo, cho đến khi nhắm mắt, thì cái ý nguyện duy nhất của Hòa thượng Thích Trí Quang là làm thế nào để thực hành được những lời của Phật dậy

"Và ông là một vị tì kheo nghiêm túc nhất mực khi hành đạo, khi tụng kinh, cũng như là khi đi theo Phật. Chưa có ai có thể vượt qua ông về cái tu chứng và hành trì.

Hòa thượng Thích Trí Quang

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionThích Trí Quang (áo xanh) cười cùng các nhà sư khác khi biểu tình ngồi ở bên ngoài Dinh Độc lập năm 1967

"Ở trong chùa, biểu tượng có lẽ thuyết phục nhất là vị tì kheo này không có một chùa riêng, không có đệ tử riêng, đệ tử riêng nghĩa là không có một đoàn đệ tử riêng, hay là Phật tử riêng.

"Và ông luôn luôn sống khổ hạnh như vậy, sống ở trong một căn phòng và dịch sách và đó là hình ảnh của Thích Trí Quang."

Vai trò lịch sử?

Nói thêm về các đóng góp được coi là lớn nhất cho đất nước về vai trò lịch sử của Hòa thượng Trí Quang, Tiến sỹ Thái Kim Lan nhận định:

"Tôi nghĩ Hòa thượng Thích Trí Quang trong hoạt động về mặt xã hội cũng như văn hóa đối với xã hội, đối với lịch sử, đối với Phật tử chúng tôi, ngài Thích Trí Quang là vị đã cứu độ Phật giáo, cứu độ người Phật tử, ông luôn luôn bảo vệ đời sống của người Phật tử bằng sự dấn thân của ông.

"Đó là vai trò lịch sử của Thích Trí Quang và với vai trò này, có thể nhiều người phê phán, nhưng theo tôi, tôi thấy nếu Việt Nam chỉ thực hiện được một nguyện vọng của Thích Trí Quang, thì Việt Nam có thể vượt qua được nhiều khổ nạn.

"Nhưng mà tiếc thay vấn đề lịch sử nó phức tạp hơn là cái thực tế ở trong từng giai đoạn một và sự hiểu lầm về vai trò của Thích Trí Quang cũng rất nhiều, nhưng mà có lẽ trong khuôn khổ này, tôi không muốn nhắc lại, tại vì nó đòi hỏi rất nhiều sự nghiên cứu, cũng như là đòi hỏi rất nhiều cái tâm trung thực đối với lịch sử.

"Trong lúc đó, lịch sử bây giờ đối với tôi, những trang lịch sử mà được viết về phong trào Phật giáo, cũng như là về Hòa thượng Thích Trí Quang của người Mỹ hoặc là của người Việt Nam, những khảo cứu, tôi nghĩ vẫn chưa nói hết được hay là một cách trung thực cái ý nghĩa mà Thích Trí Quang đã đóng góp."

Về cách thức tiếp cận lịch sử đối với các sự kiện lịch sử và các nhân vật lịch sử, như trong trường hợp này là Hòa thượng Thích Trí Quang, nhà nghiên cứu triết học và Phật giáo nói:

Phật giáo Việt Nam

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionNgày 31/3/1975: Nhà lãnh đạo Phật giáo quyền lực nhất Nam Việt Nam, Thích Trí Quang (bìa trái) biểu tình đòi Tổng thống Thiệu từ chức. Trí Quang dẫn đầu một cuộc biểu tình của các nhà sư, giáo sĩ và cư sĩ. Thích Trí Quang được cho là đã góp phần cho việc lật đổ cố Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963

"Tôi nghĩ là trước hết cần phải tôn trọng sự thật, cần phải nhìn nhận sự thật lịch sử trong từng giai đoạn, có nghĩa là chúng ta nên bình tâm và chúng ta phải có ý muốn làm thế nào để giữ sự thật, bảo vệ sự thật của lịch sử.

"Chứ không nên vì quan điểm cá nhân hoặc quan điểm chính trị của từng phe nhóm để phê phán và bóp méo sự thật, làm thế nào để cho tâm của mình bình tĩnh và công bình, chứ không nên vì quyền lợi, hay vì ý thích phe đảng để nhìn nhận lịch sử."

Tư tường và sự khác biệt

Bình luận so sánh lựa chọn tư tưởng và phong cách hành đạo, con đường tu hành với một số nhân vật lịch sử và tôn giáo khác đã khuất hay còn tại thế, như Mahatma Gandhi, Hòa thượng Thính Quảng Độ hay Thiền sư Thích Nhật Hạnh, Tiến sỹ Thái Kim Lan nói:

"Hòa thượng Thích Trí Quang so sánh với trường hợp của Gandhi, ngay trong những năm như là từ 1965 - 1966, năm 1966 ngay cả khi ngài tuyệt thực, và trước đó nữa nghĩa là năm 1963, khi mà chúng tôi tuyệt thực thì luôn luôn bất bạo động, đó là tinh thần của Gandhi.

"Luôn luôn Phật tử phải tâm nguyện là không có bạo động, chỉ tuyệt thực để yêu cầu thực thi chứ không phải là cưỡng bức thực thi. Thành thử tinh thần Gandhi đó từ năm 1963 đến 1965, sau 1965, 1966, thì tinh thần chúng tôi, Phật tử, luôn luôn ở trong vai trò được kêu gọi là bất bạo động.

"Ngay cả khi Thích Trí Quang tuyệt thực 100 ngày thì cũng là ở trong tinh thần đó và tôi muốn nói rằng theo cảm nghĩ và nhận định của tôi về hành đạo, thì Thích Trí Quang luôn luôn là người hành đạo có thể là trung thực nhất ở trên mặt Phật pháp.

"Ở trong trường hợp này, ngài lại rất chuẩn xác đối với lời dạy của Đức Phật, ngài không đi ra ngoài con đường mà Phật đã dạy.

Tiến sỹ Thái Kim LanBản quyền hình ảnhBBC NEWS TIẾNG VIỆT
Image captionTiến sỹ Thái Kim Lan trong một trao đổi từ trước với BBC News Tiếng Việt


"Thiền sư Nhất Hạnh có thể sáng tạo, tạo ra một con đường khác để theo Phật, nhưng Thích Trí Quang luôn luôn là một nhà tu chuẩn mực và tinh tấn ở trong tu chứng của mình. Và ngài hành đạo cẩn thận, cẩn mực, không muốn việc tu chứng bị hiểu lầm trong khi hành đạo.

"Đương nhiên vai trò của Thầy Thích Quảng Độ thì đó là một sự tiếp diễn của Phật giáo Thống nhất trước 1975. Mọi người đều tôn trọng hành động của Thầy Thích Quảng Độ.

"Nhưng về phương diện khi hỏi về đạo, thì có lẽ Thầy Tì kheo Thích Trí Quang là người quyết liệt về cách tu chứng nhất và thuần thành nhất.

"Theo Phật đến từng lời một, không đi sai, không đi ra ngoài, luôn luôn bảo vệ Chánh pháp, ngay cả sự im lặng của ngài cũng chính là một cách bảo vệ Chánh pháp!," nhà nghiên cứu Triết học và Phật giáo nói với BBC News Tiếng Việt từ Huế hôm 13/11/2019.


https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-50409941

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6616)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6915)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 895)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33875)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4717)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4667)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4623)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4587)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4912)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4624)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567