Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sơ lược tiểu sử Đại Lão Hòa thượng Thích Trí Quang (1923-2019)

12/11/201912:43(Xem: 52682)
Sơ lược tiểu sử Đại Lão Hòa thượng Thích Trí Quang (1923-2019)

Chan dung_Dai Lao Hoa Thuong Thich Tri Quang

 

 

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG

pdf-icon
Trí Quang Tự Truyện_HT Thích Trí Quang





1/ Thân Thế:

Đại Lão Hòa thượng Thích Trí Quang, thế danh Phạm Quang, sinh vào giờ Thìn ngày 21/12/1923 (Quý Hợi) tại làng Diêm Điền, tỉnh Quảng Bình. Ngài là người con thứ tư trong gia đình gồm 6 anh chị em. Thân Phụ Ngài pháp danh Hồng Nhật, Thân Mẫu pháp danh Hồng Trí. Thân Phụ của Ngài từng là nhân viên mật vụ nghĩa quân Phan Đình Phùng ở Quảng Bình, về sau Cụ ông xuất gia với Đại Sư Đắc Quang, là vị Tăng Cang Chùa Linh Mụ, Huế.


2/ Xuất gia tu học:

Ngài xuất gia năm 1938 (Mậu Dần) với Đại sư Hồng Tuyên ở chùa Phổ Minh, Tỉnh Quảng Bình, thuộc dòng Thiền Lâm Tế Thiên Đồng Đạo Mân.

Từ năm 1939 đến 1944, Ngài được Bổn Sư cho theo học tại Trường An Nam Phật Học do Hội An Nam Phật Học thành lập năm 1932 tại Cố đô Huế được Đại Sư Giác Tiên làm giám đốc và Đại Sư Trí Độ làm đốc giáo, Giáo Thọ còn có Bác Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Phật Học Đường có học trình 10 năm: ba năm sơ đẳng, ba năm trung đẳng, hai năm cao đẳng và hai năm siêu đẳng. Kỳ thi tốt nghiệp vào năm 1944, Hòa Thượng đạt số điểm cao nhất.


3/ Thời Kỳ Hành đạo:

Sau kỳ thi năm 1944 (Phật Lịch 2487), Phật Học Viện tổ chức lễ phát nguyện cho Sa Di giới do Đại Sư Đắc Quang chứng minh, Đại Sư Trí Độ cho mỗi vị một pháp hiệu với chữ Trí đứng đầu. Đạo hiệu Trí Quang của Ngài được dùng từ đó. Mùa hè năm ấy, Đại Sư Hồng Tuyên ban cho Ngài pháp tự là Trí Hải, và tập chúng cử Ngài làm Trú trì Chùa Phổ Minh.


Năm 1946 (Bính Tuất, PL 2490), Đại Sư Hồng Tuyên tổ chức truyền thọ Tỷ Kheo giới và truyền giới cho Ngài với pháp hiệu là Thiền Minh. Cùng năm này, Ngài bắt tay soạn thảo đề án thống nhất Phật Giáo VN. Mùa hè năm 1946, Đại Sư Trí Độ và Ngài được Phật giáo Bắc phần mời ra giúp đỡ thành lập Phật Học Viện tại Chùa Quán Sứ. Trường Phật Học này cũng khá qui mô, mới mở trên một tháng mà đã khai giảng được hai lớp chính, nhưng chỉ sau một tháng phải đóng cửa vì chiến tranh nổi dậy.


Năm 1947, Ngài trở về quê nhà Quảng Bình, và được báo tin là Pháp sắp chiếm Quảng bình. Ngài nghĩ là mình sẽ chết vì chiến tranh mà chưa kịp thọ giới Bồ Tát, nên cầu thỉnh Bổn Sư là Đại Sư Hồng Tuyên truyền thọ Bồ tát giới vào tối 28/02/1947. Bốn ngày sau khi thọ Bồ Tát giới, lính Pháp đổ bộ vào Đồng Hới, Ngài cùng dân làng chạy giặc Pháp lên vùng kháng chiến. Nhưng tháng 10 năm ấy, mẹ bịnh nặng, nên ngài xin về nuôi mẹ và làm lễ mãn tang Cha.


Năm 1948 (Mậu Tý, PL 2492) Ngài vào Huế giảng dạy tại Phật Học Đường Báo Quốc.


Năm 1949 (Kỷ Sửu, PL 2493), lần đầu tiên có quyết định Tăng sĩ đảm nhận chức vụ Tổng trị sự Hội Phật Học, HT Thích Đôn Hậu làm Hội Trưởng, Ngài được cử làm Hội Phó


Năm 1950 (Canh Dần, PL 2494) Ngài vào Sài gòn góp sức vận động hợp nhất ba Phật Học Đường Liên Hải, Mai Sơn và Ứng Quang (về sau đổi thành Ấn Quang), thành lập Phật Học Viện Nam Việt, và chung sức vận động thành lập Hội Phật Học Nam Việt. Rồi về Huế, làm chủ bút tạp chí Viên Âm. Cuối năm 1950, Ngài được cử làm chủ tọa phiên họp sơ bộ để thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, do Ngài Tố Liên đề xướng sau khi đi Tích Lan về. Ngài bắt đầu vận động thống nhất Phật Giáo Việt Nam, có một phần do yếu tố tác động của “Hội Liên hữu Phật giáo Thế giới ” thành lập tại Tích Lan vào năm 1950.


Năm 1952, Hòa Thượng đến Tokyo, Nhật Bản tham dự Đại Hội kỳ 2 của Hội Liên hữu Phật giáo Thế giới


Năm 1953 (Quí Tỵ, PL 2497), Tổng Hội được chính quyền thừa nhận và đúng 10 năm sau, chính Tổng Hội này đã lãnh đạo công cuộc chống kỳ thị Phật Giáo năm 1963.


Năm 1955 (Ất Mùi, PL 2499), Ngài nhận chức vụ Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Học, vận động đổi tên Phật Học thành Phật Giáo, đưa Tổng Hội Phật Giáo VN vào đặt trụ sở ở Sài Gòn. Rồi nghỉ việc cho đến 1963 nhận lại chức vụ nói trên. Với chức vụ này, Phật Đản năm ấy Hòa Thượng phát động, và chung sức lãnh đạo, việc đòi hỏi công bằng xã hội và bình đẳng tôn giáo vốn bị chế độ Ngô Đình Diệm luôn áp đặt để tàn phá Phật Giáo.


Năm 1963, Ngài là một trong những vị Tăng Sĩ nòng cốt lãnh đạo phong trào đấu tranh bất bạo động chống chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Vì muốn Thiên Chúa Giáo độc tôn và muốn anh ruột Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục làm Hồng Y sớm , nên ông Diệm xuống tay đàn áp Phật Giáo. Dụ số 10 được thêm Dụ bổ túc, tăng cường sự hạ giá và kỳ thị Phật Giáo. Chính quyền cho sửa điện Thái Hòa trong Hoàng Thành Huế, có lưỡng long mà không có nhật nguyệt để cắm Thánh Giá. Mọi việc suôn sẻ thì tòa Hồng Y sẽ đặt ở đó. Cao trào nhất là mùa Phật Đản 2507 (tháng 5 năm 1963), ông Diệm chính thức ra lệnh triệt hạ cờ Phật Giáo để Vatican thấy hầu hết dân Huế theo đạo Chúa, và tang thương nhất là chính Ngài và Hòa Thượng Mật Nguyện chứng kiến cảnh giết sát hại 8 Phật tử tại Đài Phát Thanh Huế vào đêm mùng 8 tháng 5 năm 1963. Vì thế, Hòa Thượng đã công bố Tuyên Ngôn 5 điều sau đây:


1/ Phật Giáo tự giới hạn, chỉ phản đối chính sách ngược đãi Phật Giáo của chính phủ. Phật Giáo không bước qua những địa hạt khác, nhất là địa hạt quyền chức chính quyền.
2/ Phật Giáo tuyệt đối sử dụng phương cách “bất bạo động”.
3/ Phật Giáo không mưu độc tôn, không cầu độc tôn, nên không thấy ai, kể cả Thiên Chúa Giáo là đối nghịch.
4/ Phật Giáo không mưu hại ai, không thiên ai để hại ai. Nếu thất bại, Phật Giáo coi là sự thất bại của chân lý trước bạo lực, không phải thất bại như bạo lực kém bạo lực.
5/ Sau hết, nhưng quan trọng nhất, là Phật Giáo thỉnh cầu các bậc lãnh đạo thực thể đối trận, đừng khai thác gì về cuộc vận động của Phật Giáo. Vì làm như vậy thì đối phương quí vị lấy cớ để hại Phật Giáo mà thôi.


Năm 1964, Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo tại Sài Gòn, Ngài được bầu làm Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.


Năm 1966, Hòa Thượng bị bắt giam và quản thúc tại Sàigòn, ngài đã phản đối và phát tâm tuyệt thực 100 ngày, ngài tuyên bố: “chúng tôi nguyện đem xương máu để trang trải cho Phật Pháp và nếu chết là chết như cái chết của Chân Lý trước bạo lực, chứ không phải bạo lực này chết vì kém bạo lực khác”.


Sau vụ Sắc Luật 23/67, Hòa Thượng trở về ẩn tu, nỗ lực phiên dịch Kinh sách và hướng dẫn Tăng Ni tu học.


Từ năm 1975 đến năm 2012, Đại lão Hòa Thượng tịnh tu, trước tác, biên dịch kinh điển tại Chùa Ấn Quang và Tu Viện Quảng Hương Già Lam.


Năm 2013, ở tuổi 91, sau hơn 50 năm lưu trú ở Sàigòn, Đại lão Hòa thượng đã trở về thăm quê nhà Quảng Bình, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi được Bổn sư thế độ xuất gia, thăm lại mộ phần của song thân, và sau đó, Ngài quyết định lưu lại chốn cũ là Tổ Đình Từ Đàm, tiếp tục việc dịch thuật kinh điển và chuyên tâm hành trì cho tới ngày viên tịch.


Sau vài ngày pháp thể khiếm an Đại lão Hòa thượng đã thuận thế vô thường an nhiên viên tịch tại phương trượng Tổ Đình Từ Đàm, Cố đô Huế lúc 21 giờ 45 phút ngày 8 tháng 11 năm 2019 (nhằm ngày 12 tháng 10 năm Kỷ Hợi), trụ thế 97 năm, 72 hạ lạp.


Theo thông báo của Tỳ kheo Thích Hải Ấn, Trụ Trì Tổ Đình Từ Đàm, gởi đi ngày 8 tháng 11 năm 2019, di huấn của Cố Hòa Thượng Trưởng Lão là:

1/Sau giờ chết rồi độ 6 giờ là liệm.
2/Liệm rồi các Pháp tử lạy 3 lạy rồi là đưa ra xe tang.
3/ Không bàn thờ, bát nhang, báo tang, thành phục, đưa đám, phúng điếu.
4/ Chuyển đến lò thiêu; thiêu rồi đem về chùa làm tuần, chung thất, trăm ngày, tiểu tường và đại tường.
5/Mỗi lễ chỉ tụng một trong các kinh: Địa tạng, Kim cương, Bồ tát giới, Pháp hoa và Thủy Sám.
6/Mỗi lễ đều không thông báo và mời ai dự cả.


4/ Phiên dịch Kinh Điển:

Trong cuộc đời của Đại Lão Hòa thượng Thích Trí Quang, điều quan trọng nhất đối với Ngài là dành nhiều thời giờ cho việc phiên dịch, biên soạn và in ấn Kinh điển để giúp Tăng, Ni, Phật tử có thêm tài liệu nghiên cứu, tu tập mà chính Ngài đã bày tỏ trong Tiểu Truyện Tự Ghi rằng “Sự biên dịch Kinh Sách của tôi mới đích thực là thị hiếu và chí hướng bình sinh của đời tôi và là mong ước của Mẹ tôi”. Dưới đây là một số tác phẩm và dịch phẩm của Hòa Thượng: Về Kinh Tạng: Kinh Duy-ma, Kinh Vu Lan. Kinh Kim Cương, Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim, Kinh Viên Giác, Kinh Giải Thâm Mật, Kinh Hoa Sen Chánh Pháp, Kinh Thắng Man, Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, Dược Sư Kinh Sám, Kinh Địa Tạng, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Ba Ngàn Danh Hiệu Phật.. Về Luật Tạng: Bồ-tát giới Phạn võng, Tỳ-kheo giới, Tỳ-kheo-ni giới, Thức-xoa-ma-na-ni giới, Sa-di và Sa-di-ni giới, Quy Sơn Cảnh Sách… Về Luận Tạng: Luận Khởi Tín, Luận Đại Trượng Phu, Dị bộ tông luận, Luận Chỉ Quán, Nhiếp đại thừa luận. Và những tác phẩm khác: Cao Tăng Pháp Hiển, Ngọn lửa Quảng Đức, Người Xuất Gia, Vua Lương Võ Đế, Người Phật tử tại gia, Tâm Ảnh Lục….


Trải suốt cuộc đời gần một thế kỷ, từ khi xuất gia, hành đạo cho đến lúc viên tịch, Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang đã nỗ lực không ngừng trong công cuộc xiễn dương đạo pháp. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài xứng đáng cho Tăng ni và Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài không còn nữa nhưng đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử Việt Nam ở mai sau.


Nam Mô Tân Viên Tịch Tự Lâm Tế, Thiên Đồng Thiền Phái, Phổ Minh Môn Hạ, Nguyên Thiều Pháp Hệ, Tứ Thập Nhất Thế, Từ Đàm đường thượng, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhật Giáo Hội, Nguyên Viện Tăng Thống Chánh Thư Ký, húy thượng Nhật hạ Quang, tự Trí Hải, hiệu Thiền Minh, đạo hiệu Trí Quang, Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.

Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
(Biên soạn theo "Trí Quang Tự Truyện" và các tài liệu khác)


 


  

***

pdf-icon
Trí Quang Tự Truyện_HT Thích Trí Quang



***

Một số hình ảnh về
Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang
 


ht thich tri quanght thich tri quang 5
ht thich tri quang-7ht thich tri quang-5ht thich tri quang-4ht thich tri quang-2


ht thich tri quang-4On Tri Quang 3On Tri Quang 4Chan Dung Duc Truong Lao HT Thich Tri Quang_1923_2019--2Chan dung HT Thich Tri Quang 2
On Tri Quang 2
Chan Dung Duc Truong Lao HT Thich Tri Quang_1923_2019Xa loi On Tri QuangXa loi On Tri Quang-2
Xa loi On Tri Quang-2

Xa loi On Tri Quang

 trai tim bo tat quang duc

Ý kiến bạn đọc
12/11/201914:30
Khách
Giới PGVN nên tôn xưng đâu là THỦ Xá Lợi[XL nguyên xương đầu].coi như thế gian hy nửu :Phật có xL Răng;Có vị tổ gì đó cón XL Lưởi;Bồ tát Quãng đức có Tim XL ;nay đức TLHT Trí qaung có Thủ XL lưu lại thế gian cho ngàn đời sau chiêm bái cúng dường
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/04/2011(Xem: 4873)
Từ vùng đất địa linh nhân kiệt, chúa Nguyễn Hoàng lập nghiệp đầu tiên, Hòa thượng đã thác tích hiện thân đại sĩ, nương thuyền từ độ kẻ trong mê. Duyên lành sẵn có, tâm Bồ đề sớm phát, tuổi ấu thơ đã thắm nhuần đạo vị, chùa Hải Đức trưởng dưỡng chí xuất trần. Rồi đến độ tâm hoa khai phát, lúc tuổi thanh xuân, nơi chốn Tổ Tra Am, Hòa thượng quyết chí tu hành, cắt ái từ thân, thế phát bẩm sư với Tổ Viên Thành.
04/04/2011(Xem: 7666)
BBC Giới thiệu Đôi nét về Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thích Thích Nhất Hạnh là một thiền sư nổi danh trên thế giới, là một văn nhân, một thi nhân, một học giả, mà cũng là một người đấu tranh cho hòa bình. Bên cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma thì Thầy là bậc đạo sư nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra Thầy còn là tác giả của trên một trăm cuốn sách, trong đó gồm có những "xếp hạng bán chạy nhất“ (bestsellers) như những cuốn Hòa Bình Từng Bước Chân (Peace is Every Step), Phép lạ của sự Tỉnh thức (The Miracle of Mindulness), Chúa nghìn đời, Bụt nghìn đời (Living Buddha Living Christ) và Giận (Anger)
28/03/2011(Xem: 6935)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
25/03/2011(Xem: 6705)
Không biết anh thâm nhập Phật giáo từ lúc nào, nhưng lúc còn là Oanh vũ, năm 1945 anh đã tham gia sinh hoạt đoàn thể tiền thân của Gia đình phật tử hiện nay. Anh sáng tác nhạc rất sớm, và cũng giữ trường trai rất sớm. Thập niên 1955 của thế kỷ XX, cộng đồng Phật giáo đã biết và nghe tên anh qua nhiều nhạc phẩm mang đậm tư tưởng Phật giáo. Hiện nay số lượng tác phẩm do anh sáng tác và phổ thơ đã trên 500 bản. Anh và nhạc sĩ Lê Cao Phan là hai cội sen già trong vườn hoa đạo Phật.
25/03/2011(Xem: 6137)
Hòa Thượng Thích Phước Huệ (1875-1963)
25/03/2011(Xem: 6882)
ĐPNN: Là một trong những nhạc sĩ PG đầu tiên được ghi nhận công lao đóng góp cho văn hóa PG trong quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo của cố HT.Thích Thiện Hoa, NS Hằng Vang từng đoạt giải nhất cuộc thi sáng tác Phật nhạc do GHPGVNTN tổ chức, trao giải thưởng ngày 25-2-1965 tại nhà hát lớn Sài Gòn. Các trung tâm văn hóa PG trong và ngoài nước đã xuất bản hơn 20 album của NS Hằng Vang theo các hình thức cassettes-CD-VCD ca nhạc, kinh nhạc và 20 album cassettes-video-CD-VCD-DVD cũng như 8 tuyển tập ca nhạc đứng chung với nhiều tác giả khác.
24/03/2011(Xem: 5848)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
21/03/2011(Xem: 4465)
Tôi đã sống với một con người với tất cả ý nghĩa của Người trong một thời gian tương đối dài giữa một giai kỳ buồn vui pha trộn. Có thể nói Gs Phạm Công Thiện là người có một cách sống giản dị, không kiểu cách, cầu kỳ, ngược lại rất khiêm cung và nhẫn nại, nhẫn nại ngay cả trong hoàn cảnh rất khó nhẫn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567