Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Diễn Văn Khai Mạc Lễ An Vị Phật tại Thiền Lâm Pháp Bảo, Wallacia 19.10.2019

22/10/201907:47(Xem: 8661)
Diễn Văn Khai Mạc Lễ An Vị Phật tại Thiền Lâm Pháp Bảo, Wallacia 19.10.2019


le-an-vi-phat-thien-lam-phap-bao-161
Diễn Văn Khai Mạc

Lễ An Vị Phật tại Thiền Lâm Pháp Bảo, Wallacia 19.10.2019

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

 

Kính bạch chư tôn thiền đức Tăng Ni,

Kính thưa quý thượng khách, thưa quý đồng hương người Việt.

Hôm nay trong bầu không khí trong sáng an bình, tại vùng Wallacia này, Thiền Lâm Pháp Bảo vô cùng hân hạnh cung đón chư tôn thiền đức Tăng Ni, chào mừng quý quan khách, quý đồng hương người Việt quang lâm tham dự và chứng minh lễ an vị tôn tượng Phật Thích Ca ngự trên đài. Đặc biệt Ban Tổ Chức hết sức hoan hỷ, xin được chào đón một số khách mời người bản xứ liên hệ qua công trình xây dựng Thích Ca Phật Đài.

Sự hiện diện của chư quý liệt vị trong buổi lễ hôm nay, điều này trước tiên cho thấy, sự hòa bình, an lạc không có phân biệt, không có ranh giới, và ở đây vượt lên hết thảy văn hóa, kể cả quên đi niềm tin tôn giáo của mỗi sắc tộc. Chúng con, chúng tôi, thiết nghĩ Tôn tượng Phật là một hình ảnh nghệ thuật tuyệt đỉnh, vượt lên niềm xúc cảm bình thường, và vượt khỏi phạm vi của khung ảnh cuộc đời, đó chính là nghệ thuật hòa bình nhân bản, hay nói theo danh từ Phật Giáo là từ bi và trí huệ. Với ý nghĩa đó tôn tượng Phật mới hài hòa trong xã hội đa văn hóa nước Úc nói riêng, nhân loại trên thế giới nói chung. Và cũng chính là niềm thao thức ước nguyện của hàng đệ tử xuất gia thế hệ sau tại Pháp Bảo.

Tượng Phật với chất liệu đá trắng thiên nhiên, được khai thác từ miền Bắc Việt Nam, tượng nặng khoảng 180 tấn. Khi còn là những khối đá chưa tạc, trọng lượng lên đến 300 tấn. Đá được di chuyển từ Bắc vào Nam, rồi sau khi tạo thành tượng, lại được di chuyển đến Úc vùng Wallacia này. Với sức nặng như vậy tượng phải tạo thành 9 khối nối kết với nhau. Tôn tượng lần lược được chở vào Thiền Lâm bằng 9 chiếc xe truck. Có vài khối đá không được phép băng qua cầu, vì vượt khỏi trọng lượng cho phép là 32 tấn. Chiếc xe truck gặp trở ngại hôm đó, phải mất thời gian nhiều hơn để tìm một con đường khác, và phải vất vả cho người lái, cũng như người trông đợi. Cuối cùng tất cả khối tượng được an toàn đặt xuống đất Thiền Lâm.

Rồi phải mất 1 năm trời chờ giấy phép của Council, tượng mới được thượng đài. Lần này, khó hơn gấp nhiều lần so với việc di chuyển tượng, giai đoạn câu tượng Phật lên mất 4 ngày trời làm việc với sự nín thở đưa từng khối tượng lên cao. Xin thưa là nín thở nhiều phút trong nhiều giờ chứ không thể nín nổi bốn ngày.

Như vậy 9 khối đá được nâng lên, thì nhịp tim đập của người chung quanh hôm ấy cũng tương ưng như khối đá vậy. Cuối cùng nhờ Tam Bảo gia hộ, nhờ hộ pháp hộ trì, nhờ những tấm lòng tha thiết, nhờ quý Thầy, Cô, quý thiện nam tín nữ, và nhất là Ông Karl, người san đất, đào đất, thiết kế cảnh trí cùng với sự bàn thảo của quý Thầy Cô, đã đặt hết niềm kính mộ yêu quý công trình này. Khi đài Phật hoàn chỉnh, nhưng các khối tượng vẫn chưa đặt lên, ông nói: tôi vẫn không ngủ ngon được cho đến khi nào tôn tượng phải được an bày trên đài mới thôi.

Cuối cùng không thể không nhắc đến một cư sĩ, đã lo lắng tìm kiếm đá quý tạo tượng và đặt hết tâm tư vào Phật sự này, đó là cố cư sĩ Quảng Hạo thân phụ sư cô Giác Anh, tiếc rằng khi tôn tượng chính thức đến Úc, đến Thiền Lâm an toàn, thì ông mãn phần ra đi, có lẽ ông cũng mãn nguyện, chúng tôi tin rằng ông sẽ trở lại để tiếp tục hộ trì Phật sự quan trọng tương lai.

Kính thưa quý liệt vị, chúng con, chúng tôi mạn phép có ít lời chia xẻ với niềm kính ân trong sự nhân duyên hình thành của buổi lễ an vị hôm nay.

Trước khi dứt lời, kính nguyện tôn tượng sẽ lưu trụ tại Úc càng lâu, để hình ảnh nghệ thuật tuyệt đỉnh, để tình thương và trí huệ lan tỏa khắp mọi nơi trên đất nước Úc.

Kính chúc chư tôn Thiền Đức Tăng Ni, Quý quan khách đồng hương người Việt, quý quan khách người bản xứ, luôn được an lành trong đời sống.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Trân trọng chào quý liệt vị

Sydney, ngày13/10/2019

 

 

 

 
le-an-vi-phat-thien-lam-phap-bao-136le-an-vi-phat-thien-lam-phap-bao-140le-an-vi-phat-thien-lam-phap-bao-161

Opening Address

by the Organising Committee

 

Namo Shakyamuni Buddha,

Dear Sangha Members, Distinguished Guests, the Vietnamese-Australian Community, Ladies and Gentlemen,

In today’s bright and peaceful atmosphere of Phap Bao Forest Monastery, we’re honoured to welcome you all to this auspicious Blessing Ceremony of the Shakyamuni Buddha Statue. We’d like to especially extend a warm welcome to the non-Vietnamese members involved in this Project. 

The presence of everyone regardless of your cultural backgrounds and religious beliefs demonstrate that harmony and peace have no boundaries. We believe the Shakyamuni Buddha statue is a truly magnificent work of art, evoking emotions beyond words can describe. The statue’s existence epitomises harmony, compassion and wisdom, fulfilling the wishes of the new generations of monks and nuns from the Phap Bao Temple.

Made of natural white marble, the Buddha statue was mined in North Vietnam, originally weighing 300 tonnes and 180 tonnes after it was carved. The stones were transported from the North to the South of Vietnam, carved into the Shakyamuni Buddha statue, dismantled into 9 pieces and then shipped to Australia. The pieces were then transported to Wallacia by 9 trucks. Despite some unforeseen lengthy delays to one of the transportation efforts, the stone pieces all eventually arrived safely.

The paperwork approval process by the Wollondilly City Council took a year to complete before the statue could be reassembled. The reassembling process was much more laborious than the shipping process. Hoisting the stone pieces and assembling them took a gruelling 4 days with many hours of heart-stopping moments by the observers as each stone piece was carefully raised and perfectly placed into its correct position.

Eventually, with the great blessings of the Triple Gem, the Dharma protectors, the sincere dedications of all the lay Buddhists, the contributions of Phap Bao Temple’s Sangha members, and especially Mr. Karl Acsai, our dedicated excavation specialist, in consultation with myself and Venerable Bikkuni Giac Anh, he has played an integral role in driving this project to completion. We could feel Karl’s genuine dedication through his comment: “I won’t sleep well until the Buddha statue is fully assembled on the platform”.

Finally, it would be remiss of us if we didn’t mention Mr Quang Hao, a devoted lay Buddhist, also the father of Venerable Bikkuni Giac Anh, who contributed significantly to the process of searching for the right stone and the right people to do this grand job. Regretfully, he passed away when the stone pieces reached Wallacia… However, we believe he will return to continue supporting important Buddhism projects in the future.

Sangha members, ladies and gentlemen, these were our few humble words to address you on this auspicious occasion.

We’d like to pray for the longevity of the Buddha statue for generations to come so this splendid work of art and its symbolism of compassion and wisdom can spread across this nation far and wide.

In closing, we’d like to wish the Sangha members, Distinguished guests, Vietnamese-Australian members and everyone in Australia continued peace and prosperity.

Namo Shakyamuni Buddha.

Senior Venerable Thich Pho Huan.

 

 

Summarized by Thanh Kim, Joy Nguyen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6011)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8397)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5445)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5907)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6878)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7584)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5140)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6561)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6515)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14440)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]