Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dòng Sông Thấp Thoáng Con Thuyền

08/06/201912:10(Xem: 5867)
Dòng Sông Thấp Thoáng Con Thuyền

 

ht quang thanh 5 Hòa Thượng Thích Quảng Thanh


(Hôm nay, ngày 6 tháng 6 năm 2019, đã trải qua một ngày, sau khi các bác sỹ quyết đinh ngưng điều trị căn bệnh nan y đã đến giai đoạn chót, để Hòa Thượng Thích Quảng Thanh, trụ trì Bảo Quang tự viện được về chùa yên nghỉ.

Suốt một ngày, một đêm đã trôi qua trong tiếng tụng kinh, niệm Phật của Chư Tôn Đức và Phật tử khắp nơi. Trên giường bệnh, bác sỹ và y tá túc trực chỉ còn truyền thuốc giảm đau cho Hòa Thượng mà thôi; nên mơ màng giữa mộng và thực, đôi lúc người bệnh cũng tỏ dấu cảm nhận và ý thức được những gì xung quanh.

Trưa nay, bác sỹ và những vị thân cận đã quyết đinh người bệnh phải có sự yên tĩnh và không gian thông thoáng hơn, nên đề nghị hình thức tụng kinh và cầu an dời lên chánh điện và người viếng thăm chỉ đứng bên ngoài, nhìn qua cửa kính.

Sau khi sắp xếp, tôi là một, trong những người ở lại trong phòng. vì tôi ngỏ ý muốn được ngồi đây, niệm Phật thầm.  Bác sỹ và y tá thì theo dõi và chăm sóc bệnh nhân. Một vài vị thân cận thì luôn hội ý với Đại lão Hòa Thượng Thích Chơn Thành, trụ trì chùa Liên Hoa để ứng phó và cập nhật với những diễn biến. Chính vì ngồi đối diện giường bệnh mà trong một phút bất ngờ nhất, chúng tôi đã chợt nghe người bệnh nói nhỏ:” Cho nghe …nhạc ….thiền …!”

Ôi, nhu cầu tinh thần của một tâm hồn nghệ sỹ!

Và dòng thiền ca, các nhạc sỹ phổ từ thơ thi sỹ Thanh Trí Cao- tức Hòa Thượng Thích Quảng Thanh-đã được mở nhè nhẹ, ngay đầu giường bệnh.

Do được chứng kiến giây phút cảm động này, tôi xin chia sẻ bài viết về một CD mà lời thơ Thanh Trí Cao đang là những gì gần gũi nhất với không gian và thời gian này).

TN Huệ Trân    

      

DÒNG SÔNG THẤP THOÁNG CON THUYỀN

 

            Đây là tựa CD thiền ca mới nhất, nhạc sỹ Hoàng Quang Huế phổ từ mười bài thơ của nhà thơ Thanh Trí Cao, tức Hòa Thượng Thích Quảng Thanh, trụ trì chùa Bảo Quang.

            Trong khóa An Cư Kiết Hạ 2011 tại chùa Bảo Quang, thỉnh thoảng, để tận dụng dăm phút trước giờ học tập, đại chúng lại được Thầy cho nghe bài chủ đề của CD. Vì vậy mà chúng tôi, ai cũng nhớ được hai câu hỏi dễ thương trong bản nhạc này: “Giác ngộ rồi, người sẽ về đâu? Giác ngộ rồi, người sẽ làm chi?”

 

            Trai đường của trường hạ là khoảng sân trống, trước chánh điện, được căng lều làm mái che nắng gió. Trên hai bờ tường “dã chiến” của trai đường là những câu thơ, những bức họa đầy đạo vị, thiền vị, trong đó có phác họa hình bìa của CD “Dòng Sông Thấp Thoáng Con Thuyền”

            Chỗ tôi ngồi, thường đối diện với những nét chấm phá này, nên giờ thọ trai nào cũng tưởng như tâm mình “thấp thoảng” khởi lên dăm … con thuyền.

            Tuy bức họa chỉ có một con thuyền, nhưng tôi chắc thầy Quảng Thanh ngụ ý có những con thuyền tiếp nối nhau. Dòng sông này, chắc cũng không phải chỉ là dòng sông tích-môn mà phải là dòng sông sinh tử mang dấu ấn bản-môn, để những con thuyền được hành giả mượn làm phương tiện vượt bờ mê, qua bến giác.

            Cảm nhận chủ quan của tôi như thế, vì tác giả là một thiền sư, một nghệ nhân, một nhà văn hóa, và thâm trầm hơn hết, là một nhà sư khoác áo Như Lai từ thuở thiếu thời; nên người thưởng ngoạn muốn tiếp nhận được phần nào rung động từ tác phẩm, chắc cần có đôi phút lắng tâm, để nhìn bằng tuệ nhãn, nghe bằng tánh-nghe, biết đâu lại may mắn, thấp thoáng thấy được chính mình!

            Có lần, Đức Khổng Tử đi ngang một dòng sông, đã dừng lại, chỉ tay xuống dòng nước chảy xiết mà nói với các đệ tử rằng:     

            -Thệ giả ư tư phù, bất xả chú dạ.

            Đại ý là, dòng sông cứ đêm ngày không ngừng, chảy hoài, chảy mãi …

            Nếu kẻ phàm phu đi ngang dòng sông cũng nói như thế, mà có bạn cùng đi, thì có thể sẽ được nghe, đại khái: “Ai chả biết dòng sông chảy hoài không ngừng!”

            Nhưng lời nói từ bậc Thánh Hiền thì phải hiểu là lời dạy bảo, nhắc nhở ta chớ để năm tháng trôi qua uổng phí; phải biết rằng một ngày sống vô nghĩa là ta đã đánh mất một ngày trong cuộc đời, vì cuộc đời vẫn trôi, trôi đều, không hề phút giây nào dừng lại.

            Trước hình ảnh con thuyền đơn độc, thấp thoáng trên sông, bỗng dưng tôi cảm thấy bùi ngùi chi lạ!

            Nhân loại trên trái đất này vừa được ước tính khoảng bảy tỷ người. Bảy tỷ con người mà trên dòng sông sinh tử chỉ thấy “thấp thoáng”, tức là chỉ ít ỏi, khiêm nhường, những con thuyền muốn vượt bờ mê, qua bến giác!

            Vậy, đa số nhân loại đang ở đâu? Nếu được thân người là phước báu mà không dùng phước báu này làm phương tiện vượt thoát sinh tử thì cái gì sẽ đón ta khi con thuyền tứ đại tan rã?

            “Giác ngộ rồi, người sẽ về đâu?

            Cho tôi xin bắc một nhịp cầu.

            Dòng sông ấy thiên thu tĩnh lặng.

            Người là ai, hằng hữu nghìn sau” (*)

            Đây có phải là lời từ bi sách tấn giữa năng và sở, người cho và người nhận, người hỏi và người đáp, như gương đối bóng mà thôi, xá chi phải rõ, ai giác ngộ rồi, ai còn vời trông; nhưng dấu ấn về một đối tượng giác ngộ đã là điểm tựa đầy an ủi cho kẻ còn bôn ba. Niềm an ủi đó đủ lớn, tạo thành niềm tin xin bắc nhịp cầu tìm về con đường giác ngộ.

            Đây là sức mạnh của Thân Giáo khi ngài Xá Lợi Phất nhìn phong thái oai nghi, đĩnh đạc của một vị sa môn đang hành trì hạnh khất thực trong thành phố. Đó là sa môn Assagi, một, trong năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Chỉ bằng thân giáo thầm lặng thôi, nhưng đã toát ra giáo pháp, khiến kẻ đang cầu đạo phải sửng sốt, rồi nhẫn nại theo sau để chờ dịp hỏi thăm sư phụ của vị ấy là ai, dạy pháp gì mà từng bước chân, từng cử chỉ của đệ tử tỏa sáng như thế!

             “Giác ngộ rồi, người sẽ làm chi?

            Cho tôi xin nối kết những gì

            Lý tưởng đẹp cuộc đời dâng hiến

            Đường thênh thang ta mãi cứ đi” (*)

 

            Tới đây, tôi đang bắt gặp hình thức “vô vấn tự thuyết” trong kinh A Di Đà. Hội chúng không ai hỏi nhưng vì lòng từ bi Đức Phật đã mượn đối tượng là ngài Xá Lợi Phất mà  thuyết giảng về cõi Tịnh Độ Tây Phương, để khuyên răn, thúc liễm chúng sanh sớm nhận biết vô thường, kíp chí tâm quay về tự tánh Di Đà.

            Ở đây, là lời mời gọi lên đường tìm về giác ngộ, nơi ấy, người giác ngộ rồi, sẽ làm chi? Làm rất nhiều, mà thật chẳng làm. Như Bồ Tát Vô Sự, trên con đường thênh thang chỉ có một việc là hiến tặng những gì đẹp đẽ cho đời.

            Trên dòng sông, con thuyền hướng về Bến Giác tiếp tục thả những đóa sen:

            “Đây núi cao, hay tình người cao?

            Cánh cửa Không, ta mở lối vào

            Sở trường ấy chiều dày tuệ giác

            Tâm ấn tâm, người đã truyền trao

 

            Sang sông rồi, thuyền bỏ lại đây

            Bước ung dung tự tại như mây

            Thảo am nhỏ trăng treo lơ lửng

            Dấu ấn thiền hạnh ngộ đông tây

 

            Sang sông rồi, nguyện lực như nhiên

            Tình yêu thương ứng dụng chân truyền

            Tâm tình đẹp, chan hòa sợi nắng

            Dòng sông xưa thấp thoáng con thuyền” (*)

 

            A! Bây giờ đối tượng giác ngộ mới rõ nét. Người đã qua bờ bên kia, đã Đáo Bỉ Ngạn. Phương tiện đã bỏ lại. Dòng sông ấy đã là “sông xưa”, là quá khứ. Nhưng cũng dòng sông quá khứ, lại đang thấp thoáng con thuyền hiện tại. Con thuyền hiện tại, lại đang chở một người giác ngộ vị lai!

            Tới đây là sự tiếp nối nhiệm mầu và kỳ diệu của tinh thần Kim Cang “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” lại là chặng đường quán tâm, hàng phục tâm, an trụ tâm để tiến tới thong dong tự tại: “Sang sông rồi, nguyện lực như nhiên”          

             

            Lời chia sẻ thành thực và đáng suy ngẫm của nhà thơ Thanh Trí Cao trong đêm ra mắt CD “Dòng Sông Thấp Thoáng Con Thuyền” mà tôi ghi nhận được là một câu ngắn gọn: “Xây dựng và chỉnh trang ngôi chùa tọa lạc trên diện tích 2.2 mẫu đất, chúng tôi có thể hoàn tất trong vòng một năm. Vâng, mười hai tháng thôi, Chùa Bảo Quang với chánh điện được tân tạo khang trang đã hoàn thành. Nhưng cái CD nhỏ xíu, cầm gọn trong lòng bàn tay này thì phải hơn hai năm, hôm nay mới được ra đời.”

 

            Giá trị của nghệ thuật và văn hóa là như thế.

 

                                                                        Huệ Trân

                                                           (Tào-Khê tịnh thất)


(*) Thơ: Thanh Trí Cao

 

 

 

                

                

                            

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5386)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5833)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6805)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5847)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10223)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8254)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13267)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5573)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13348)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6348)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567