Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cư Sĩ Nguyễn Văn Bốn Pháp Danh: Tâm Biên (Thân Phụ của HT Thích Nguyên Trực, Trụ Trì Chùa A Di Đà, Sydney, Úc Châu)

18/05/201918:17(Xem: 5246)
Cư Sĩ Nguyễn Văn Bốn Pháp Danh: Tâm Biên (Thân Phụ của HT Thích Nguyên Trực, Trụ Trì Chùa A Di Đà, Sydney, Úc Châu)


cu si nguyen van bon 2

Tiểu Sử:

Cư Sĩ Nguyễn Văn Bốn

Pháp Danh: Tâm Biên.

Pháp Tự: Thiện Hiền (Quảng Thông)

Pháp Hiệu: Hạnh Khế.


Cố chơn linh NGUYỄN VĂN BỐN, sanh ngày: 20. 02. 1929 (11. 01. Kỷ Tỵ) tại thôn Đại Điền Đông, Diên Điền, Diên Khánh - Khánh Hòa. Trong một gia đình chánh tín Tam Bảo, là người con trai duy nhất trong năm chị em. Nội tổ Phụ qua đời khi Cố chơn linh lên 07 tuổi.

Lên năm 10 tuổi xuất gia tu học tại Tổ đình Chùa Thiên Quang, nay thuộc thị trấn Diên Khánh. Khánh Hòa. Qui y thọ phái, được Tổ Nhơn Duệ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42 cho Pháp danh là Tâm Biên. Năm 14 tuổi Tổ cho đi thọ giới Sa Di tại giới đàn Chùa Kim Long, thôn Phú Hòa, xã Ninh Quang- Khánh Hòa và Tổ cho Pháp Tự là Thiện Hiền.

Năm Giáp Thân 1944 trong khi Tổ Nhơn Duệ nhập tháp, Cố chơn linh khi vừa tròn 16 tuổi, căn cứ vào tinh thần thiết tha cầu đạo và trí thông minh trong giới đàn Kim Long đậu thủ khoa trong hàng Sa Di, nên Tổ đặc cách cho truyền giới Cụ túc theo nghi lễ phương trượng tại Tổ đình Chùa Thiên Quang và Tổ cho Pháp hiệu là Hạnh Khế

Đến tháng 07 năm Giáp Thân Tổ Nhơn Duệ phát nguyện tự thiêu, Cố chơn linh thọ tang Thầy 03 năm tại Chùa Thiên Quang, sau mãn tang Tổ Cố chơn linh bắt đầu con đường vân du học đạo. Đầu tiên tại Chùa Sùng Đức (Sài Gòn) (đường Hùng Vương ngày nay), sau đó đến Chùa Ấn Quang (Sài Gòn)

Vào năm 20 tuổi tức năm 1948 tại Di Linh- Đà Lạt được bà con Phật tử tín nhiệm thỉnh làm Trụ trì tại Chùa Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo, thị trấn Di Linh,

Đến năm 1950, Cố chơn linh được bà con Phật tử thỉnh về công tác Phật sự tại tỉnh Hội Phật Giáo Kom Tum được 02 năm, do chiến tranh bùng nổ chùa chiền ở các tỉnh miền núi bị Pháp phá, thả bom dập nát. Cố chơn linh buộc phải trở về Tổ đình Thiên Quang.

Năm 1952 do lịnh tổng động viên nên Cố chơn linh phải hoàn tục đi lính theo luật định hiện thời, sau đó vì lý do sức khỏe Cố chơn linh trở về quê nhà làm thầy thuốc nuôi dưỡng Mẹ già

Năm 1953 Cố chơn linh kết hôn với Bà Nguyễn thị Trọng, quê quán tại thôn Thanh Minh, xã Diên Lạc, Huyện Diên Khánh. Khánh Hòa

Năm 1960 đi lính không quân và làm việc tại trung tâm huấn luyện không quân Nha Trang.

Năm 1964 do chiến tranh khốc liệt, các vùng dân cư ở nông thôn mất an ninh nên Cố chơn linh dời về sinh sống tại thành phố Nha Trang (40A Vân Đồn)để thuận tiện trong công việc. Suốt thời gian tại ngũ ở trung tâm huấn luyện không quân Nha Trang, Cố chơn linh được đề cử giữ chức vụ trưởng ban quân xa và được trong trung tâm giao giữ trụ trì chùa Long Vân tại không quân Nha Trang và làm phụ tá cho các Đại Đức nha tuyên úy Phật giáo đang công tác tại đây.

Sau năm 1975, mặc dù trong cuộc sống luôn luôn gặp nhiều khó khăn trở ngại, Cố chơn linh vẫn giữ lòng chánh tín Tam Bảo, sống cuộc sống đạm bạc thanh cao, song hành cùng các con, Cố chơn linh hết lòng chăm lo việc Phật sự tại địa phương, dồn cả tâm lực và trí lực hướng dẫn bà con Phật tử tu học tại Chùa Giác Hải, thuộc phường Phước Hòa thành phố Nha Trang, do đó được bà con tín nhiệm bầu làm Trưởng ban Nghi lễ và Phó ban đại diện Khuôn Hội Chùa Giác Hải, từ năm1976 đến năm 1988.

Năm 1989 được bầu làm Trưởng ban hộ tự Chùa Giác Hải kiêm Chánh Đại Diện, tại Chùa Giác Hải hầu như Cố chơn linh dành hết thời gian để lo về nghi lễ hướng dẫn giáo lý và xây dựng ngôi Pháp bảo, đưa đạo tràng mỗi ngày mỗi đi lên. Tuy thế cũng không quên hộ trợ các Chùa, khuôn hội, tịnh thất và niệm phật đường, nhất là gia đình Phật tử trong thành phố Nha Trang, để tấn tu trên con đường học đạo, cũng như trợ duyên một phần nào công việc phật sự cho quí Chư Tôn Đức, nên được chư Tôn Đức rất kính trọng, quý mến.

Cố chơn linh kết duyên với Bà Nguyễn Thị Trọng PD Tâm Hảo,  hạ sinh 08 người con 07 trai 01 gái, hiện tại có 05 người con trai xuất gia và đều đã thọ cụ túc giới (bao gồm:HT Thích Nguyên Trực, trụ trì Chùa Di Đà tại Sydney, Úc Châu và các vị đang tu học tại VN: Thích Chúc Long, Thích Chúc Đức, Thích Thiện Hạnh, Thích Chúc Xuân), còn 02 trai 01 gái ở ngoài đời, tất cả đều được sống chan hòa trong tình thương bao la vô bờ bến của Cố chơn linh và Mẹ.

Vì trần duyên cõi Ta bà đã mãn, vào lúc 02h15’ ngày 11- 04- Bính Tý (27– 05- 1996) Cố chơn linh xã báo Ta bà, an nhiên tại tư gia, 40A Vân đồn, phường Phước Hòa. Thành phố: Nha Trang- Tỉnh: Khánh hòa, thọ thế 68 tuổi.

Cố chơn linh mất đi là nỗi đớn đau và tổn thất lớn lao đối với gia đình không gì có thể bù đắp lại được.

(Hiếu tử Thích Chúc Xuân, biên soạn trước ngày di quan Cố chơn linh 01 ngày - Bính Tý – 1996)

 




httringhiem-qd
Trích lời đáp từ của đại lão Hòa Thượng: Thượng Trí Hạ Nghiêm.

(Chứng Minh đạo sư Tỉnh Hội Phật Giáo tỉnh Khánh Hòa)

 

Một sự việc xảy ra quá đột ngột, một con người dĩ nhiên vô thường sẽ đến nhưng mà nó đến với Chơn linh họ Nguyễn này rất đáng thương đáng kể, thôi thì sự việc ở đời này không phải mình muốn là được mà sự việc diễn ra thì nó cứ diễn. Như cái lời tiểu sử của Chơn linh thì Chơn linh là một người đã thành một phật tử ở đời, ở đạo, học đạo và được một vị Sư là Ngài Hòa Thượng Trừng Thông, chính những việc đó tôi được Chơn linh chỉ vẽ và cặn kẽ. Thì giờ đây giờ phút cuối cùng, riêng về cá nhân tôi thì mới ngày 24 tháng 03 này (Bính Tý – 1996) tại ngôi chùa tổ đình cổ tích Kim Sơn kia thì Chơn linh lên ngày giỗ Tổ ngày 24, tôi gặp Chơn linh đùng một cái thì nghe cách đây 03 hôm Chơnlinh ra đi không hề đau (bệnh) quá ư đột ngột. Nhưng mà ở trên đời không biết được đâu mỗi người có mỗi cái, như vậy là Chơn linh hưởng chỉ 02 cái: Sanh, Lão, Bệnh, Tử Chơn linh hưởng 02 cái Sanh và Tử, chứ không Lão và không Bịnh, giờ đây có nói gì cùng rồi rồi, Gia đình mất một người như thế nào? Khuôn Hội Giác Hải mất một người như thế nào? Bà con mất một người như thế nào? Bài tiểu sử nói cũng đầy đủ rồi.

Bây giờ, nhắc lại sự nghiệp của Chơn linh như vậy chỉ có một câu, câu này là chung cho tất cả những người xuất gia rồi không tu được trở về hoàn tục,“ Trần duyên dị đoạn, lợi cập nhân quần” câu đó là câu của Vua Tự Đức phê cho một ông Sư ở Chùa Linh Mụ mà không tu được đưa đơn lên xin hoàn tục. Nếu như mà Hương linh có 15 người con trai chắc chắn là cho đi tu 14,13 người, thì lợi cập nhơn quần là vậy chứ không còn gì hơn được. Thôi, giờ Gia đình chẳng biết làm sao hơn Vô thường ‘Sanh Tử sự đại Vô thường tấn tốc’ đến biết làm sao hơn, giờ Chư Tăng chúng tôi cũng hết lòng đối với một Chơn linh Phật tử.

Không ai tránh khỏi, chưa chắc già mà đã chết, mà chưa chắc trẻ mà đã sống, chưa chắc người bịnh đau mà đã chết, chưa chắc người khỏe mạnh mà đã sống, sự việc của con người diễn ra không ai biết được, không ai lường được, thôi thì cuối cùng chư Tăng Ni chúng tôi cầu nguyện chư Phật tiếp độ Chơn linh...



Hình ảnh Lễ huý nhật năm thứ 23

Cố Chơn Linh Ưu Bà Tắc NGUYỄN VĂN BỐN (11.4. Kỷ Hợi (2019)


Cu Si Nguyen Van Bon (1)Cu Si Nguyen Van Bon (2)Cu Si Nguyen Van Bon (3)Cu Si Nguyen Van Bon (4)Cu Si Nguyen Van Bon (5)Cu Si Nguyen Van Bon (6)Cu Si Nguyen Van Bon (7)Cu Si Nguyen Van Bon (8)Cu Si Nguyen Van Bon (9)Cu Si Nguyen Van Bon (10)Cu Si Nguyen Van Bon (11)Cu Si Nguyen Van Bon (12)Cu Si Nguyen Van Bon (13)Cu Si Nguyen Van Bon (14)Cu Si Nguyen Van Bon (15)Cu Si Nguyen Van Bon (16)Cu Si Nguyen Van Bon (17)Cu Si Nguyen Van Bon (18)Cu Si Nguyen Van Bon (19)Cu Si Nguyen Van Bon (20)Cu Si Nguyen Van Bon (21)Cu Si Nguyen Van Bon (22)Cu Si Nguyen Van Bon (23)Cu Si Nguyen Van Bon (24)Cu Si Nguyen Van Bon (25)Cu Si Nguyen Van Bon (26)Cu Si Nguyen Van Bon (27)Cu Si Nguyen Van Bon (28)Cu Si Nguyen Van Bon (29)Cu Si Nguyen Van Bon (30)Cu Si Nguyen Van Bon (31)Cu Si Nguyen Van Bon (32)Cu Si Nguyen Van Bon (33)Cu Si Nguyen Van Bon (34)Cu Si Nguyen Van Bon (35)Cu Si Nguyen Van Bon (36)Cu Si Nguyen Van Bon (37)Cu Si Nguyen Van Bon (38)Cu Si Nguyen Van Bon (39)Cu Si Nguyen Van Bon (40)Cu Si Nguyen Van Bon (41)Cu Si Nguyen Van Bon (42)Cu Si Nguyen Van Bon (43)Cu Si Nguyen Van Bon (44)Cu Si Nguyen Van Bon (45)Cu Si Nguyen Van Bon (46)Cu Si Nguyen Van Bon (47)Cu Si Nguyen Van Bon (48)Cu Si Nguyen Van Bon (49)Cu Si Nguyen Van Bon (50)Cu Si Nguyen Van Bon (51)Cu Si Nguyen Van Bon (52)Cu Si Nguyen Van Bon (53)Cu Si Nguyen Van Bon (54)Cu Si Nguyen Van Bon (55)Cu Si Nguyen Van Bon (56)Cu Si Nguyen Van Bon (57)Cu Si Nguyen Van Bon (58)Cu Si Nguyen Van Bon (59)Cu Si Nguyen Van Bon (60)Cu Si Nguyen Van Bon (61)Cu Si Nguyen Van Bon (62)Cu Si Nguyen Van Bon (63)Cu Si Nguyen Van Bon (64)Cu Si Nguyen Van Bon (65)Cu Si Nguyen Van Bon (66)Cu Si Nguyen Van Bon (67)Cu Si Nguyen Van Bon (68)Cu Si Nguyen Van Bon (69)Cu Si Nguyen Van Bon (70)Cu Si Nguyen Van Bon (71)Cu Si Nguyen Van Bon (72)Cu Si Nguyen Van Bon (73)Cu Si Nguyen Van Bon (74)Cu Si Nguyen Van Bon (75)Cu Si Nguyen Van Bon (76)Cu Si Nguyen Van Bon (77)Cu Si Nguyen Van Bon (78)Cu Si Nguyen Van Bon (79)Cu Si Nguyen Van Bon (80)Cu Si Nguyen Van Bon (81)Cu Si Nguyen Van Bon (82)Cu Si Nguyen Van Bon (83)Cu Si Nguyen Van Bon (84)Cu Si Nguyen Van Bon (85)Cu Si Nguyen Van Bon (86)Cu Si Nguyen Van Bon (87)Cu Si Nguyen Van Bon (88)Cu Si Nguyen Van Bon (89)Cu Si Nguyen Van Bon (90)Cu Si Nguyen Van Bon (91)Cu Si Nguyen Van Bon (92)Cu Si Nguyen Van Bon (93)Cu Si Nguyen Van Bon (94)Cu Si Nguyen Van Bon (95)Cu Si Nguyen Van Bon (96)Cu Si Nguyen Van Bon (97)Cu Si Nguyen Van Bon (98)Cu Si Nguyen Van Bon (99)Cu Si Nguyen Van Bon (100)Cu Si Nguyen Van Bon (101)Cu Si Nguyen Van Bon (102)Cu Si Nguyen Van Bon (103)Cu Si Nguyen Van Bon (104)Cu Si Nguyen Van Bon (105)Cu Si Nguyen Van Bon (106)Cu Si Nguyen Van Bon (107)Cu Si Nguyen Van Bon (108)Cu Si Nguyen Van Bon (109)Cu Si Nguyen Van Bon (110)Cu Si Nguyen Van Bon (111)Cu Si Nguyen Van Bon (112)Cu Si Nguyen Van Bon (113)Cu Si Nguyen Van Bon (114)Cu Si Nguyen Van Bon (115)Cu Si Nguyen Van Bon (116)Cu Si Nguyen Van Bon (117)Cu Si Nguyen Van Bon (118)Cu Si Nguyen Van Bon (119)Cu Si Nguyen Van Bon (120)Cu Si Nguyen Van Bon (121)Cu Si Nguyen Van Bon (122)Cu Si Nguyen Van Bon (123)Cu Si Nguyen Van Bon (124)Cu Si Nguyen Van Bon (125)Cu Si Nguyen Van Bon (126)Cu Si Nguyen Van Bon (127)Cu Si Nguyen Van Bon (128)Cu Si Nguyen Van Bon (129)Cu Si Nguyen Van Bon (130)Cu Si Nguyen Van Bon (131)Cu Si Nguyen Van Bon (132)Cu Si Nguyen Van Bon (136)Cu Si Nguyen Van Bon (137)Cu Si Nguyen Van Bon (138)Cu Si Nguyen Van Bon (139)Cu Si Nguyen Van Bon (140)Cu Si Nguyen Van Bon (141)Cu Si Nguyen Van Bon (142)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6725)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 11075)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 6676)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 6362)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8134)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 6725)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 6138)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 5482)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 5534)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
09/04/2013(Xem: 28661)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567