Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Môn Trì Danh Niệm Phật

14/07/201819:03(Xem: 10824)
Pháp Môn Trì Danh Niệm Phật

phat a di da-2

 PHÁP MÔN “TRÌ DANH NỆM PHẬT



I) Lời dạy của Đức Phật, Tổ Sư về Pháp Môn Niệm Phật:

 

1.“Trong đời Mạt Pháp, ức ức người tu hành, ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương theo  pháp môn Niệm Phật mà thoát luân hồi” (Kinh Đại Tập)

2. “Thật vì Sanh Tử, phát tâm Bồ Đề, Dùng Tín Nguyện sâu Trì Danh hiệu Phật” (Triệt Ngộ Đại Sư)

3. “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải”. (Thiện Đạo Đại Sư).

4. “Được Vãng Sanh hay không, đều do Tín, Nguyện có hay không. Phẩm vị cao hay thấp, đều do hành trì sâu hay cạn”. (Ngẫu Ích Đại Sư).

 

 5. Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát đã khai thị: “Môn niệm Phật tam muội hay dứt trừ tất cả phiền não nghiệp chướng đời này cùng đời trước. Các tam muội khác, có môn trừ nghiệp dâm, mà không thể trừ nghiệp sân. Có môn trừ nghiệp sân, mà không thể trừ nghiệp si. Có môn trừ nghiệp sân, si mà không thể trừ nghiệp tham, dâm. Có môn trừ tham, sân, si nhưng chẳng thể trừ những tội nghiệp đời trước. Niệm Phật tam muội có thề trừ sạch nghiệp tham, sân, si, cùng tất cả trần duyên phiền não và tội chướng đời trước.

Lại nữa, niệm Phật tam muội hay sanh trí huệ phước đức rộng lớn, có thể độ chúng sanh. Chư Bồ Tát nếu muốn độ sanh mà tu các môn tam muội khác, tất kết quả rất chậm kém. Bởi các môn tam muội khác, phước đức không bằng niệm Phật tam muội. Tại sao thế? Vì Phật là đấng Pháp Vương, phước huệ đều viên mãn, nên vô lượng phước đức trí tuệ của hành giả, tất phải từ nơi Phật mà tăng trưởng và thành tựu mau chóng.  Lại nữa, do vì niệm

Phật luôn, tâm không rời Phật, nên hành giả thường được gặp chư Phật…”

 

6. “Chỉ duy Trì Danh mà chứng Thật Tướng, không cần Quán Tưởng cũng thấy Tây Phương”  - Đại sư Ấn Quang tán thán pháp môn Tịnh độ: “Chín cõi chúng sinh lìa pháp môn này không thể viên thành quả Phật, mười phương chư Phật bỏ pháp môn này dưới không thể lợi khắp các hạng chúng sinh”.

 

7. Con đường vào cửa (nhập môn) Tịnh Độ Tông là bước đầu tiên hành giả  nên giữ “Thân - Miệng -Ý” phải Thanh Tịnh (Kinh Thập Thiện). Tôn chỉ của Tịnh Độ Tông là “Tin sâu, Nguyện thiết, và Chấp Trì danh Niệm Phật”(Kinh A Di Đ à)

II) Vài Kinh Nghiệm Quan Trọng Thực Hành Pháp Môn Trì Danh Niệm Phật:

 

1 Niệm Phật có 4 phương pháp: “Thật Tướng Niệm Phật- Quán Tượng Niệm Phật - Quán Tưởng Niệm Phật- Trì Danh Niệm Phật”. Duy nhất phương pháp Trì Danh Niệm Phật là thù thắng nhất.

Pháp môn “ Trì Danh Niệm Phật” lại c ó 10  phương pháp trì danh như sau: 

  1. Phản văn trì danh; 2. Sổ Châu Trì Danh, 3. Tùy Tức Trì Danh, 4. Truy Đảnh Trì Danh, 5. Giác Chiếu Trì Danh, 6. Lễ Bái Trì Danh, 7. Thập Ký Số Trì Danh, 8. Liên Hoa Trì Danh, 9. Quang Trung Trì Danh, 10. Quán Phật Trì Danh (Niệm Phật Thập Yếu- Hòa Thượng Thích Thiền Tâm  trang 136)

Trong 10 phương pháp Trì Danh Niệm Phật,  duy nhất là phương pháp Thập ký số Trì Danh là bậc nhất, vì phương pháp này chữa trị 2 căn bệnh thông thường của người tu là bệnh “Hôn Trầm” (buồn ngủ) và bệnh “Tán Loạn” (vọng tưởng, phân tâm)

 

2.  Thập ký số Trì Danh nghĩa là vừa niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, tâm ý đếm số 1 và niệm tiếp tục “Nam Mô A Di Đà Phật”, tâm ý đếm số 2 và tiếp tục niệm Phật hiệu đếm cho số 10 và ai hơi dài là 2 hơi (1-5; 6-10 câu Phật hiệu) và ai hơi thở ngắn làm 3 hơi (1-3; 4-6; 7-10 câu Phật hiệu).

 

Chú ý niệm 10 Câu “Nam Mô A Di Đà Phật” sẽ lần qua 1 hột chuỗi, lúc niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” câu nào phân tâm hoặc vọng tưởng xen vào, sẽ không lần 1 hột chuỗi đó và bắt phải niệm 10 Câu “Nam Mô A Di Đà Phật” lại, cho chắc thật rồi, mới lần qua hột chuỗi đó.

 

3.  Niệm Phật Chắc Thật có 2 yếu tố quan trọng: 

a) Là Tiếng niệm Phật phải rành rẽ, rõ ràng, niệm ra tiếng (nơi trang nghiêm) hoặc niệm thầm (nơi không trang nghiêm), tai lắng nghe tiếng Niệm Phật để đưa câu Phật hiệu vào trong chủng tử tâm thức.

b)  Là Tâm ý niệm + miệng niệm Phật hòa làm một (Niệm Phật nhất tâm).

                                                 

Thích Đạo Thông
(Trích Kinh, và soạn thảo Mùa An Cư năm 2018)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8916)
Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
09/04/2013(Xem: 7519)
Hòa thượng Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi ( 1911 ) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp danh Như chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh là Thị Bửu. Từ nhỏ Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
09/04/2013(Xem: 6996)
Hòa thượng Huệ Quang, thế danh Nguyễn Văn Ân sing năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau theo mẹ về Trà Vinh. Năm 1902,Ngài xin xuất gia vào chùa Long Thành ở Trà Cú được Hòa thượng Thiện Trí mến thương đặt danh pháp là Thiện Hải. Ngoài giờ học Phật pháp, Ngài lại được Hòa thượng cho học thêm y học.
09/04/2013(Xem: 7105)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
09/04/2013(Xem: 7929)
Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
09/04/2013(Xem: 8077)
Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).
09/04/2013(Xem: 10371)
Hòa thượng Giới Nghiêm thế danh là Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. ngài xuất thân trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa Thượng Quang Diệu, chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
09/04/2013(Xem: 6759)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.
09/04/2013(Xem: 11516)
Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa-hắc-Tài, thân mẫu là Nguyễn-Thị-Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em : ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.
09/04/2013(Xem: 6276)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]