Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hãy Bình Lặng Như Dòng Sông

12/07/201816:47(Xem: 13036)
Hãy Bình Lặng Như Dòng Sông

dongsong_3

Hãy Bình Lặng Như Dòng Sông


Tĩnh lặng an lạc là biểu hiện nội tâm tu tập sâu xa, từ bỏ là cả một quá trình quán niệm giúp cho con người vượt qua được những điều bất như ý đi ngang qua cuộc đời, đây cũng là một phương pháp để phát triển về mặt tâm linh. Sống thiếu niềm tin, tánh nhẫn nại và tâm khiêm hạ cũng như sự tu tập, con người khó có thể hòa đồng cảm thông và khó giữ được mối quan hệ tốt đẹp lâu dài với những người chung quanh mình. Người không học hạnh xả ly sẽ hủy hoại tâm an lạc của chính mình và không an ổn cho tha nhân.

Đức Thế Tôn có dạy:

"Cái gì không phải của các ông, này các Tỳ Kheo hãy từ bỏ nó sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc cho các ông".

Một lời nhắn nhủ hết sức là minh triết của Đức Thế Tôn, với một mục đích khai sáng nhân bản bằng trí tuệ, giải phóng mọi hệ lụy, mà thói quen con người luôn bị trói buộc kềm hãm trong vòng luẩn quẩn của tri thức, của ý niệm "ngã" và "ngã sở". Có nhận thức được mới buông bỏ để đạt đến sự bình lặng của nội tâm, sáng ngời như những viên kim cương óng ánh trên mặt nước giữa trưa hè êm ả, không gợn sóng của dòng sông

Trong Tương Ưng Bộ Kinh Đức Phật có nói.

- "Này các Tỳ Kheo, các ông nghĩ thế nào, Sắc là thường hay vô thường?

- Bạch Thế Tôn! Vô thường

- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

- Bạch Thế Tôn! Khổ

- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là "cái này của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"

- Bạch Thế Tôn! Không.

- Chư Tỳ Kheo, Thọ ... Tưởng ... Hành ... Thức là thường hay vô thường?

- Bạch Đức Thế Tôn! Là vô thường

- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

- Bạch Thế Tôn! Là khổ

- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là "cái này là của tôi ... tự ngã của tôi".

- Bạch Thế Tôn! Không

- Do vậy, này các Tỳ Kheo, cái gì không phải của các ông, các ông hãy từ bỏ. Các ông từ bỏ, sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, cái gì không phải của các ông? Chư Tỳ Kheo, Sắc không phải của các ông, hãy từ bỏ sắc. Các ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, Thọ không phải là của các ông, hãy từ bỏ thọ. Các ông từ bỏ thọ sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, Tưởng không phải là của các ông, hãy từ bỏ tưởng. Các ông từ bỏ tưởng sẽ đem lại hạnh phúc lâu dài, an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, Các hành không phải là của các ông, hãy từ bỏ các hành Các ông từ bỏ các hành sẽ đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, Thức không phải là của các ông, hãy từ bỏ thức. Các ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông. Chư Tỳ Kheo các ông nghĩ thế nào? Trong rừng Telavana này nếu có người thâu lượm cỏ, cây, nhành, lá rồi đốt hay làm với chúng tùy theo ý muốn, các ông nghĩ chăng? Người ấy thâu lượm chúng ta, đốt chúng ta hay làm với chúng ta tùy theo ý muốn?

- Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn vì nó không phải tự ngã hay không phải sở thuộc của ngã.

- Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, cái gì không phải của các ông, các ông hãy từ bỏ. Các ông từ bỏ sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông. Chư Tỳ Kheo và cái gì không phải là của các ông? Chư Tỳ Kheo, sắc không phải của các ông, hãy từ bỏ sắc. Các ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông. Chư Tỳ Kheo thọ ... Chư Tỳ Kheo tưởng ... Chư Tỳ Kheo hành ... Chư Tỳ Kheo thức ... Không phải của các ông. Các ông từ bỏ sẽ mang lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông. Cái gì không phải của các ông, hãy từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc cho các ông?

Buông bỏ mọi ý niệm liên hệ đến tự ngã hay thực hành nếp sống vô ngã khi tiếp xúc với Trần cảnh là một việc làm thánh thiện, một lối sống không còn phiền muộn khổ đau, mà Đức Thế Tôn đã trải nghiệm qua trong suốt hành trình của Ngài, không dễ gì mấy ai làm được, đây là điểm then chốt của Phật dạy cho người tu là phải từ bỏ để đạt đến sự an tĩnh của nội tâm, tinh cần tỉnh giác để không rơi vào ý niệm "cái tôi" và "của tôi". Không mê lầm, không chấp trước những gì không phải là của mình.

Chúng ta sanh ra và lớn lên rồi tất bật với bao nhiêu cuộc sống não phiền: Nào tiền tài, danh vọng, địa vị, vật chất v. v ... nếu không quân bình về tâm lý, chúng ta dễ bị kích động, dù là một lời nói không đáng kể, một sự phê bình vu vơ, chọc tức, hoặc từ việc làm hay một ước mơ không thành tựu, hay một vài sự kiện nho nhỏ, cũng dễ tác động tâm thức mình, những mâu thuẫn, chán nản, bực tức, oán giận, tuyệt vọng không đâu, dần dần tạo nên những phản ứng gây hại không mấy tốt đẹp cho mình và chung quanh mình.

Chúng ta bận rộn suốt ngày, mà cái đem lại hạnh phúc an lạc cho mình thì ít ai quan tâm đến? Không có sự bình lặng của nội tâm làm sao chúng ta thấy được cái gì giúp ta đạt đến chân thiện mỹ của cuộc sống để đem lại hạnh phúc? Vì sao ta phải sống trong âu lo sợ hãi? Điều gì khiến chúng ta bực bội, bất an, phải chăng do mê lầm cố hữu chấp trước, nắm bắt lạc thọ mà khổ hay chăng? Có bao giờ mình tự hỏi: Tại sao ta phải chạy theo những ảo tưởng, những thứ không cần thiết để suốt cả lộ trình sanh tử phải đeo mang khổ lụy? Tại sao chúng ta không tìm lại sự bình an của tâm hồn? Tại sao không biết dừng để thấy nẻo về của ý sanh diệt hay thường hằng, lạc thú hay hạnh phúc miên trường? v. v ... Biết bao câu hỏi tại sao và tại sao? Rồi cũng thế nếu chúng ta không cho an lạc tâm hồn là quan trọng thì không giải quyết được gì.

Đức Thế Tôn dạy: Cái gì không phải của mình thì hãy từ bỏ nó để được an lạc hạnh phúc lâu dài? Điều quan trọng Ngài nhắn nhủ là ngay bây giờ chúng ta phải học cách gieo hạt giống tốt thánh thiện vào mảnh đất tâm Phật của ta.

- Sống tinh cần tỉnh giác chánh niệm ta biết rõ buồn vui chỉ là một cảm xúc tạm thời, thuận ý thì vui, nghịch ý thì buồn, ta chuyển hướng tâm ta vào đối tượng hoan hỷ, lạc quan thay vì để tham sân si chế ngự, quán niệm tư duy sẽ giải tỏa mọi hệ lụy và bình lặng nội tâm.

- Ta nhận thức sự an bình của nội tâm có được khi ta biết lánh xa những nguyên nhân gây hại, những tác động phiền não cho tâm, phải thân cận thiện hữu, học hỏi điều hay, tinh cần tỉnh thức, thì sự an lạc theo đó mà phát triển.

- Ta buông bỏ mọi cảm xúc của tự ngã vì ta biết được sự sanh diệt của năm uẩn đưa đến sự phiền muộn khổ đau, ta hoán chuyển không đam mê, không tìm cầu nắm bắt, ta sẽ được sự an tĩnh sâu xa như lời Phật đã dạy:An lạc có được khi biết từ bỏ những gì không phải của mình.

- Ta tập cõi lòng ta rộng mở, thường quán niệm tha thứ bao dung không chấp, không tự mãn thì ta sẽ có thêm niềm an lạc trong cuộc đời vô thường này.

- Ta quán niệm và nhận thức: Giận hờn trách móc, tranh giành, hơn thua, tham lam, tật đố chỉ đè nặng tâm thức ta, trưởng dưỡng tự ngã vô minh mà thôi, ta tập buông xả để hoán giải mọi vấn đề, tâm ta sẽ nhẹ nhàng hơn.

- Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh cảm thọ: Khổ, lạc hay bất khổ, bất lạc, quán sát tư duy để thấy không thực thể của các pháp hiện hành, giả hợp, sanh diệt khi ta không làm chủ được và khi không nắm bắt được các pháp ta sẽ cảm thấy khổ đau. Không vướng mắc, không vọng động, không can thiệp, đây là lối sống hạnh phúc an lạc do từ bỏ những gì không phải của mình.

- Ta biết sự tập trung vào một pháp hành mỗi sáng, tối, giúp chúng ta định tâm, thấu rõ được bản chất thật của kiếp sống, và mau trở về ngôi nhà xưa, là an trú vào nội tâm bất sanh bất diệt của mình.

- Tập trung vào sự quán chiếu, giúp ta thấu hiểu rõ bản chất thật của mọi hiện tượng, hiểu rõ nguồn gốc phát sanh ra mọi khổ đau là do vô minh tham ái, thấy được nguyên nhân sinh ra và nguyên nhân diệt đi, sự vô thường không thật của vạn pháp, sự bám víu vào tự ngã để rồi buồn vui ái thủ. Quán sát như vậy vô minh sẽ lùi tan và mặt trời tuệ giác sẽ chiếu soi, đem lại sự bình lặng chân thật miên viễn.

Câu chuyện Phạm Chí Hắc Thị.

Ngày xưa có Phạm Chí Hắc Thị tu đắc 5 pháp thần thông, thuyết pháp rất hay, ngay cả Trời Đế Thích cũng đến nghe pháp. Một hôm nghe pháp xong Trời Đế Thích lộ vẻ buồn bã, Phạm Chí hỏi: Ngài sao buồn khóc thế?

Trời Đế Thích nói: Tôi nghe Ngài giảng pháp rất hay, song tôi biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn 7 ngày nữa. Phạm Chí nghe xong hoảng sợ, xin Trời Đế Thích cứu cho, Trời Đế Thích từ chối, chỉ ông đến Đức Phật.

Phạm Chí bèn vội đi đến Đức Phật, trên đường đi ông thấy 2 cây ngô đồng đang trổ bông hoa đẹp, bèn dùng thần thông nhổ 2 cây đem dâng cúng Đức Phật, Phật liền gọi tiên nhân đến bảo:

- Hãy buông đi

Phạm Chí buông cây ngô đồng bên trái

- Phật lại bảo tiếp: Buông đi

Phạm Chí buông tiếp cây ngô đồng bên phải

- Phật lại bảo tiếp: Buông đi

Phạm Chí liền thưa: Bạch Thế Tôn, hai tay con đều buông cả rồi, Ngài còn bảo con buông gì nữa?

- Phật bảo: Ta chẳng bảo ông buôn gốc hoa đó, mà chính là bảo ông buông xả 6 trần bên ngoài, 6 căn bên trong, và 6 thức ở giữa kia kìa, tất cả một lúc buông sạch hết không còn chỗ nào để buông nữa, ngay đó chính là chỗ ông thoát khỏi sanh tử.

Phạm Chí ngay đó liền ngộ pháp vô sanh, lễ tạ Phật rồi đi.

Trong Tạp A Hàm Đức Thế Tôn tha thiết ân cần khuyên: "Này hỡi các đệ tử! Khởi điểm của một hành trình xa xôi này thật không thể quán niệm được, chúng sanh bị bao trùm kín mít trong màn vô minh, bị dây ái dục trói buộc chặt chẽ, không thể khám phá khởi điểm của cuộc luân chuyển triền miên, cuộc hành trình vô định".

Lời dạy đầy nhiệt huyết, từ bi của Ngài, chỉ cho chúng ta thấy con đường dài sanh tử không dễ để vượt qua, nếu chúng ta chỉ quán niệm sơ sài, mà vượt thoát được, phải quán sát tư duy thật sâu sắc bằng trí tuệ giác ngộ, thấy rõ được sự sanh khởi vướng mắc của tri thức, để hoán chuyển buông xả, thì lo gì không giải thoát.

Nước trên nguồn chảy xuống sông sâu và cứ thế sông cứ bình lặng êm ả chuyển tải những tinh khiết của nước nguồn và phù sa bù đắp vào sông nông rạch, ngòi chan hòa khắp nơi không nhiều không ít. Rồi hòa mình vào biển cả, đồng một vị không khác.

Tâm giác ngộ cũng thế chỉ một vị đó là giải thoát. Do không tư lường các pháp, nên không chấp trước nên không chấp thủ vật gì ở đời, do không chấp thủ nên không luyến ái, tự được tịch tịnh hoàn toàn, sanh khởi đã đoạn, những việc cần làm đã làm, không còn lui lại trạng thái khổ đau - "bình lặng nội tâm", chấm dứt cuộc hành trình luân chuyển triền miên vô định của tử sinh.

"Này các Tỳ Kheo, cái gì không phải của ông, hãy từ bỏ nó, từ bỏ sẽ được đến an lạc hạnh phúc cho các ông". Hãy thực thi lời Đức Thế Tôn đã dạy.

 

     

      Trân trọng

  TKN Thích Tâm Lạc

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/09/2013(Xem: 24043)
Trong khuôn khổ của chương trình Giáo dục thường xuyên thuộc ngành y (Continuing Medical Education) của Viện đại học Harvard. Được tổ chức bởi Trường đại học Y khoa Harvard (Harvard Medical School) mà đứng đầu là các Giáo sư danh tiếng như: Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel vào các ngày 11 và 12 tháng Chín 2013 tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, với một ban Giảng huấn hùng hậu gồm 14 vị Giáo sư đứng đầu là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau đó mới tới các vị Giáo sư danh giá như: Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh.
14/09/2013(Xem: 20561)
Hòa thượng Thích Đạt Đạo, thế danh Huỳnh Văn Hà, sinh năm Tân Mão (1951) tại xã Hạnh Thông, Quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ là Cụ Ông Huỳnh Văn Chánh. Thân mẫu là Cụ Bà Lê Thị Kia, pháp danh Diệu Ca. II. Thời kỳ xuất gia học Đạo Vốn sinh ra trong một gia đình Phật tử thuần thành, nhiều đời tin kính Tam bảo, từ nhỏ Hòa thượng đã có thiện duyên với Phật pháp, được Cụ Ông, Cụ Bà thường xuyên dẫn đi chùa chiêm bái và lễ Phật. Năm 11 tuổi, Hòa thượng quy y năm giới với Hòa thượng Bổn sư thượng Đức hạ Chơn, pháp danh là Quảng Trí và sinh hoạt Gia đình Phật tử Quảng Hương. Với tâm nguyện muốn xuất gia học đạo, năm 13 tuổi (1964), Hòa thượng được Hòa thượng Bổn sư cho phép thế phát xuất gia và hành điệu tại chùa Long Huê, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Hòa thượng vào tu học ở Tu viện Quảng Hương Già Lam, từ năm 1966 - 1968.
12/09/2013(Xem: 8775)
Tôi mới nhận được một tin đáng lưu tâm. Đó là Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon(Phan Cơ Văn) là người gốc Việt Nam có dòng dõi với Phan Huy Chú. Trước đây tôi có đọc bộ sách lịch sử về VN của Bác Sĩ Trân Đại Sĩ ở Pháp viết về dòng dõi của Hoàng Tử Lý Long Tường vào giữa thế kỷ thứ 13 tại Bắc Hàn (rất hay), sau đó được biết Ông Lý Thừa Vãng Tổng Thống Nam Hàn cũng có nguồn gốc từ nhà Lý của VN và Tổng Thống Đài Laon Lý Kính Huy cũng dòng dõi nhà Lý nầy. Nay được biết thêm Ông Ban Ki Moon của Nam Hàn cũng gốc gác từ VN. Như vậy cũng là một niềm vui, nhưng xin kiểm điểm lại việc nầy. Ở Đức, tôi có thể liên lạc với Dr. Phan Huy Oánh là người nhà với Ông Phan Huy Qúat để dò hỏi thêm việc nầy. Đây là những chứng nhân của lịch sử cần nên quan tâm.
07/09/2013(Xem: 19717)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ CÁO BẠCH TANG LỄ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu), trang 7 ¨ ĐÔI LỜI CẢM NIỆM VỀ SỰ VIÊN TỊCH CỦA HT THÍCH MINH TÂM (thơ điếu của HT Thích Thắng Hoan), trang 8 ¨ TƯỞNG NIỆM HT. THÍCH MINH TÂM (thơ HT. Thích Nguyên An), trang 8 ¨ XƯNG TÁN CÔNG HẠNH CỦA CỐ TRƯỞNG LÃO HT. THÍCH MINH TÂM (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 9 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU (GHPGVNTN Hoa Kỳ), trang 10 ¨ SƠ LƯỢC TIỂU SỬ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu và Môn đồ pháp quyến phụng soạn), trang 11 ¨ CẢM NIỆM ÂN SƯ (ai văn của Môn đồ pháp quyến HT. Thích Minh Tâm), trang 12
07/09/2013(Xem: 4601)
Vừa ở khóa Tu học về được 2 ngày, còn mang theo niềm vui, với những gương mặt thân yêu của Quí Thầy, hơi ấm của tình bạn đang vây quanh con; không ngờ chị bạn cùng khóa Tu học gọi điện thoại cho biết Thầy vừa viên tịch tại Phần Lan. Một hung tin như trong mộng làm con quá đỗi bàng hoàng! Làm sao con có thể tin được vì con vừa tham dự khóa Tu học Phật Pháp Âu Châu lần thứ 25 ở Turku- Finland về. Mới đó mà! Thầy mới khai thị cho khóa học, cấp lớp chúng con đã được Thầy giảng dạy một buổi và hằng ngày Thầy đã đến đạo tràng thọ trai cùng Tăng Chúng; động viên cho hàng Phật tử đang hiện diện. Thầy đã vui với thành quả số Phật tử tham dự: 837 người, ngoài sự dự đoán của ban tổ chức vì đường sá xa xôi và tốn kém. Vậy mà tinh thần học Phật vẫn dâng cao!
29/08/2013(Xem: 9863)
THẦY GIÁO LÀNG TÔI (Kính tặng TT.Thích Liễu Pháp, trụ trì chùa Thiên Xá, Đồng Đế, Nha Trang) TỊNH MINH
27/08/2013(Xem: 13716)
Thiền tông truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI, do Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma). Đến thế kỷ thứ VII, Thiền tông truyền sang Việt Nam, do Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Thế là, Thiền tông có mặt ở Việt Nam sau Trung Hoa một thế kỷ. Đến thế kỷ thứ XII, Thiền tông mới truyền vào Nhật Bản. So Việt Nam với Nhật Bản, Thiền tông truyền bá ở Việt Nam trước Nhật Bản đến năm thế kỷ. Song ở Trung Hoa, Nhật Bản về sử liệu Thiền tông rất dồi dào, còn ở Việt Nam thật là nghèo nàn đáo để. Sự nghèo nàn ấy, không phải Thiền tông Việt Nam truyền bá kém cỏi hơn các nước Phật giáo bạn. Bởi vì nhìn theo dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ XIV, chúng ta thấy Thiền tông đã nắm trọn vẹn tinh thần truyền bá Phật giáo và cả văn hóa dân tộc Việt Nam. Những sách vở của người Việt Nam sáng tác hoặc ghi chép lại, không kém gì các nước Phật giáo bạn. Nào là Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Liệt Tổ Truyện, Nam Minh Thiền Lục, Thánh Đăng Thực Lục, Liệt Tổ Yếu Ngữ, Kế Đăng Lục, Tam Tổ T
22/08/2013(Xem: 7851)
Tin buồn do HT Như Điển gởi đi từ Phần Lan vào chiều ngày 8-8-2013, đã làm bàng hoàng và xúc động đối với Tăng Ni và Phật tử gần xa. Ôn đã ra đi trong lúc Phật sự còn ngổn ngang, bỏ lại phía sau mình niềm tiếc nhớ kính thương khôn nguôi của tất cả mọi người.
18/08/2013(Xem: 7460)
Hồi nhỏ ba tôi đưa tôi lên qui y với Hoà thượng Đôn Hậu tại chùa Thiên Mụ (1956), nhưng sau lớn lên học Đại học, vào Đoàn Sinh viên Phật tử (1963), tôi lại tham gia "tranh đấu Phật giáo" tại chùa Từ Đàm (1963-1966). Hoà thượng Thích Thiện Siêu là một trong những vị lãnh đạo của tôi lúc ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]