Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Già Lam Thanh Tịnh

12/07/201813:21(Xem: 9239)
Già Lam Thanh Tịnh

an-cu-kiet-ha-ky19-day1-kinh-hanh-76

GIÀ LAM THANH TỊNH

Sa Môn Thích Bảo Lạc

 

Kinh Hoa Thủ thuộc Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu quyển 16, kinh số 657 phẩm Hiện biến thứ 8, trang 136 thượng nói: Thân do ngũ ấm tạo thành, nên vô thường hoại diệt, dòn bở mong manh. Ngũ ấm hay cũng gọi là năm uẩn, năm sự tập hợp, chứa nhóm, là nguyên nhân khổ. Năm ấm cũng gọi là oán tặc mà tất cả thánh nhân quán chiếu như thật và lìa bỏ chúng, nên gọi khổ thánh đế. Vì thế, Đức Thế Tôn dạy rằng, gốc của khổ phát sanh từ thân ngũ ấm ở cõi trược, nơi mà chúng sanh chung sống.

Hai cõi đối đãi nhau là uế độ và Tịnh độ, cõi bẩn trược (uế độ) là nơi chúng ta đang sống trong hiện tại với bao khổ đau chồng chất, và vô vàn những bất an thường trực làm thân tâm con người luôn có sự xung đột, ray rứt, trăn trở bao nổi trầm thống của kiếp nhân sinh, như thi nhân Đoàn Như Khuê diễn tả:

 

Bể khổ mênh mông sóng ngập trời

Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi

Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió

Chung cục cùng trong bể khổ thôi…

 

Muốn thoát khổ tìm về cõi Tịnh (Tịnh độ) phải phát tâm tu tập, hầu hoán chuyển nghiệp nhân bất thiện thành nghiệp lành. Vì ở cõi Tịnh độ ai cũng phát Bồ đề tâm tu thiện được thanh lương, thuần khiết nên y báo và chánh báo trang nghiêm thanh tịnh. Y báo là cõi nước đẹp đẽ, thiên nhiên thuần hòa mọi mặt cho các loài hữu tình sống trong hòa bình an lạc; Chánh báo là con người hoàn hảo thuần thiện, không có sự xung đột, oán thù với nhau nên sống một cuộc đời trong sạch, thánh thiện giải thoát.

Theo Phật Quang đại từ điển:

“Chánh báo là quả báo cảm thọ tùy theo thiện nghiệp hay ác nghiệp ở quá khứ như sanh làm người có đủ các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tay chân cùng các cảm quan, được quả báo nhân gian; sanh làm thú có đủ cánh lông, răng móng, da vẩy, vuốt vi…chịu quả báo súc sanh, y báo là quả báo tùy theo Chánh báo mà được chỗ nương ở tương ứng, như người Chánh báo nhân gian nên nhất định có Y báo tương ứng như nhà cửa, đồ vật…; còn người bị chánh báo súc sanh thì chắc chắn có y báo, hang, tổ, chuồng, lồng”.

Nói cách khác Y báo chỉ cho quốc độ, thế gian, là nơi nương ở của loài hữu tình; còn Chánh báo là thân lượng của mỗi loài khác nhau như người, trời, nam, nữ, ngoại đạo, quỷ thần, Bồ Tát, Phật. Y báo ở cõi Tịnh độ thuần thanh tịnh, đẹp đẽ, trang nghiêm, có các loài chim hiếm quý hót tiếng hòa nhã khiến cho người nghe phát tâm nghĩ thiện, làm điều thiện, có ao thất bảo, đáy ao toàn bằng cát vàng trải khắp, nước mát dịu ngọt tinh khiết, uống vào thấm nhuần khắp cả châu thân.

Trên mặt nước hoa sen lớn đủ màu trắng, hồng, đỏ chen nhau đua nở lung linh dưới nước, khi cơn gió nhẹ thoảng qua. Trên bờ ao có những loại cây báu thẳng hàng phát ra tiếng pháp âm vi diệu làm cho ai nghe cũng đều phát tâm lành hướng thượng. Chánh báo cõi Tịnh, con người thuần tịnh, phước tướng trang nghiêm, thông minh trí tuệ, thân căn nhẹ nhàng, chuyên tu tịnh hạnh phát tâm Bồ đề và tu Bồ Tát hạnh. Nói chung từ thân căn chúng sanh đến quốc độ đều thanh tịnh thuần khiết, nơi nào cũng sạch sẽ tốt đẹp ai cũng mến ưa và vui sống.

Chư Phật Bồ Tát quán sát như thật, nhận biết rõ chân thân là nguồn cội của khổ, nhờ tu tập Thiền quán trừ dứt khổ, khổ trừ sạch trở thành thanh tịnh nên chư Phật thường lập cõi Tịnh độ để hóa độ chúng sanh. Cõi Phật thanh tịnh là nhờ tinh thần hòa hợp của mọi chúng sanh như các căn thanh tịnh, giới đức thanh tịnh, nghiệp thanh tịnh, kiến giải thanh tịnh, quán xét thanh tịnh.

- Các căn thanh tịnh: Nhãn… thân, ý, nữ căn, nam căn, mệnh căn v.v… chính là cơ năng hay năng lực của con người hay gốc rễ của cây cối, nó không những có sức tăng trưởng mà còn có khả năng phát triển thân cây, cành, nhánh, hoa quả.

Năm căn trước thuộc về khí quan cảm giác hay cơ năng cảm giác do sắc tạo thành nên gọi là năm sắc căn, chia thành hai phần thắng nghĩa căn điều khiển tác dụng cảm giác như thần kinh; và phù trần căn giúp đỡ các tác dụng như nhãn cầu, cổ mạc… là những khí quan bên ngoài, do máu thịt tạo thành. Căn cũng có nghĩa là căn cơ, căn tính biểu thị tính chất, như là người lãnh nhận vậy. Về căn cơ hơn kém khác nhau, nên mới phân thành lợi và độn hay cũng xếp chúng theo cấp bậc thượng, trung, hạ.

Nói cách khác, các căn tham dục, nóng giận, si mê… luôn tạo bất an thường trực cho con người, chìm đắm trong vô minh, đọa lạc trong sanh tử luân hồi. Vì thế, người tu hành tu tập các căn bằng phương pháp đối trị, chẳng hạn, mắt ham ưa sắc phải quán bất tịnh, mũi, lưỡi, thân… giữ cho tịnh khiết; nam căn, nữ căn dùng trì giới không phạm tà dâm (dâm dục) giữ chánh hạnh mới tránh quả báo thọ sanh trong các đường ác, sáu cõi luân hồi.

- Giới đức thanh tịnh: Giới là áo giáp đủ lực che chở người tu hành tránh khỏi mọi nạn tai, oán hại, là ngọc minh châu làm tỏa sáng pháp thân huệ mạng của người tiến tới bờ giác, là ngọn hải đăng làm tiêu đích cho thuyền bè cặp bến an toàn.

Giới bao hàm bốn nghĩa trọng yếu riêng biệt mà người thực hành cần phải hiểu rõ: Giới pháp, giới thể, giới hạnh và giới tướng. Giới pháp hay giới luật Phật chế định như tại gia có 5 giới, 8 giới, 10 giới, Bồ Tát giới, Tỳ Kheo giới, răn nhắc làm khuôn phép cho người tu hành để ra khỏi sanh tử luân hồi. Giới thể hay thể tính của giới phát sinh nơi tâm hành giả sau khi nhận lãnh giới pháp. Đây là nguồn gốc sanh ra các hạnh. Giới hạnh, sau khi được giới thể, thường phải giữ gìn ba nghiệp thân-khẩu-ý, ngăn ngừa tội lỗi, rộng tu các phương tiện, tâm không tán loạn. Giới tướng hiện rõ do giữ giới mà thành tựu các hạnh uy nghi, làm cho mọi cử chỉ đều đúng như pháp, đức tướng trang nghiêm, đạo phong khả kính.

- Nghiệp thanh tịnh, tức là mọi sự tạo tác hay những hoạt động của thân tâm như hành động, hành vi, tác dụng, ý chí hay nói cách khác là những hoạt động của thân tâm do ý chí phát sanh. Theo như Phật Quang đại tự điển: Nếu kết hợp các quan hệ nhân quả thì nghiệp là các năng lực được hình thành bởi những hành vi từ quá khứ kéo dài đến hiện tại và mãi tới vị lai. Nghiệp cũng bao hàm tư tưởng nhân quả báo ứng về hành vi thiện ác như khổ vui, và tư tưởng luân hồi trong ba đời thuộc về thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Nghiệp nếu đi sâu vào chi tiết còn chia thành biểu nghiệp và vô biểu nghiệp. Biểu nghiệp hiện rõ dễ trông thấy nơi thân thể; vô biểu nghiệp tiềm ẩn tinh tế mà lại rất mãnh liệt.

- Kiến giải thanh tịnh, tức là kiến hòa đồng giải đứng vị thứ năm trong sáu pháp lục hòa (thân hòa, khẩu hòa, ý hòa, giới hòa, kiến hòa, lợi hòa), là chỗ thấy biết rõ ràng, lý giải thông suốt không còn có chỗ hồ nghi hay bị ngăn ngại.

- Quán xét thanh tịnh, dùng lực định buộc ý niệm nơi đối tượng, đem tuệ trí soi xét để chánh quán đối tượng gọi là quán sát có hai phần: Tâm soi xét bên trong và mắt nhìn kỹ bên ngoài. Nhờ vậy mới hiểu chính xác mọi sự mọi vật một cách tường tận.

            Già lam tịnh địa hay thanh tịnh nhìn từ ngoài vào, từ trong ra có hai phần: Từ bên ngoài như nhà cửa, phòng ốc, lối đi, vườn cảnh…sạch sẽ, ngay thẳng, ngăn nắp, tươi đẹp, mát mẻ, gọn gàng. Nhìn từ trong theo thiền môn quy củ, chúng lý an hòa, oai nghi đĩnh đạc, đạo bạn tâm đồng, thầy trò nghiêm cẩn mà hai giới xuất gia, tại gia hòa hài sách tấn nhau tu tập. Lúc vừa bước chân lên đất già lam (chùa am) khách thập phương cảm thấy lòng thanh thản nhẹ nhàng như rũ sạch bụi trần vất ngoài cửa KHÔNG, để hết tâm hồn nơi có chư Phật, Bồ Tát từ bi dang tay vẫy gọi khách hồng trần trở về đất tịnh, hầu được thấm nhuần mưa pháp thanh lương giải thoát. Đây là trường chọn người làm Phật theo lời khai thị của Ngài Thiền Chủ, sáng Thứ Hai ngày 10/07/2018 tại đạo tràng khóa an cư kiết hạ kỳ 19 của Giáo Hội tại chùa Pháp Hoa Nam Úc. Hòa Thượng nói rằng, tuyển Phật trường gồm những nơi giáo dục Phật học, giới đàn, trường hạ (an cư), các khóa tu chuyên biệt… là những nơi tuyển chọn hành giả đủ điều kiện xứng đáng làm Phật. Chúng sanh nghiệp chướng nặng nề, ác kiến sâu dầy, phiền não trọng thô; căn lành mỏng cạn, xa lìa chánh kiến, tâm Bồ đề chưa vững, nên Đức Phật của tự thân hãy còn xuống lên theo dòng tâm thức trong vòng tục đế như qua thơ diễn tả:

Ai đưa ta đến chốn này

Bên gành sỏi đá lưu đày ngàn năm

Lối về muôn dặm xa xăm

Bơ vơ chiếc bóng giữa dòng tử sinh

Vào ra đổi xác thay hình

Dật dờ lên xuống vọng tình trầm luân…

(Giữa Dòng Tử Sinh của Sông Thu)

Ấy vậy mà chúng sanh vẫn muốn mau thành Phật và đây cũng chính là tâm ham muốn của con người thường mắc phải. Nhân đây bút giả nói ngay và chỉ thẳng Đức Phật nơi ta mong nhiều điều chướng nên không dễ một sớm một chiều mà thành tựu đạo nghiệp. Như trong một đạo tràng có đông hành giả, không phải ai cũng dễ thành Phật như lời Phật dạy: “Chúng sanh là vị Phật tương lai”. Tương lai ấy tùy thuộc nơi mỗi người nên hoàn toàn khác biệt. Và nêu thêm, mong quý hành giả hãy triển hạn thành Phật lại đã, theo ý riêng đề nghị: Muốn thành Phật, trước tiên phải hoán chuyển nghiệp lực trở thành thanh tịnh, là một trong những điều kiện vừa nêu trên. Cũng trong tinh thần đó, nghi tiết lễ kiết giới trường hạ an cư lần 19 vào sáng ngày 09 tháng 07 năm 2018 tại chùa Pháp Hoa, Nam Úc gồm các tiết mục chính: Tác pháp an cư, đối thú an cư, lễ khai chung bảng, lễ khai kinh bạch Phật để đạo tràng mười ngày an cư của hai chúng xuất gia và tại gia thanh tịnh. Đại chúng vân tập tại Tổ đường niệm hương lễ Lịch đại Tổ Sư, cung an chức sự, sau đó ban dẫn lễ rước đại Tăng đăng Phật điện. Trong phần tác pháp Yết Ma có hai mục chính: Vấn hòa gồm bốn câu hỏi: Tăng nhóm chưa? Hòa hợp không? Người chưa thọ Tỳ Kheo giới có trong đây không? Tăng nay hòa hợp để làm gì? Vị Duy na đáp xong 4 câu hỏi trên; Thầy tác pháp tiếp theo hai phần, xướng các giới tướng của đại giới và tiểu giới hay tướng trong và tướng ngoài của trường hạ để đại chúng nắm rõ. Sau đó, thỉnh hai vị Trưởng lão Tỳ Kheo đối thú an cư trước như tự xưng pháp danh, nói địa điểm an cư, mong được vị đối diện chứng minh cho (đọc 3 lần xong), và vị Thầy đáp: Được, tốt lắm! Đáp: Xin vâng! Lễ khai chung bảng, vị Thầy được chúng cung thỉnh đến trước Tam bảo tác bạch:

 

Chuông vàng, bảng ngọc vang khắp tam thiên

Mười ngày (hay cửu tuần) yết thị tai nhà thiền

Lịch đại Tổ sư truyền

Công đức thật vô biên

Trong ngoài thảy an nhiên.

 

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát (3 lần)

 

Thầy đi đến chỗ chuông bảng xướng pháp ngữ:

 

Chuông bảng tròn vuông pháp độ rõ ràng

Chẳng phải linh vàng, không như mõ gỗ

Quyền thật song hành, vuông tròn đúng chỗ

Ngày mười hai thời noi theo pháp Tổ

Pháp do mình hành, đạo do tâm ngộ

Không dơ, không nhiễm ấy là Tây phương

Không não không phiền chơn Cực lạc

Duy tâm Tịnh độ thật tỏ tường

Bổn tánh Di Đà do tự giác.

 

Thầy bạch kệ:

Quả chuông tròn chừ, chiếc mõ vuông.

Chín châu các cõi dứt tư lương

Lồng lộng ngân vang hồng chung vọng

Muôn thuở trang nghiêm tuyển Phật trường.

 

Tiếp Thầy hô:

Một dùi vỡ nát cõi hư không

Muôn dặm mây bay tan tán lạc

Gặp kẻ đầu đồng và trán sắt

Thay da mặc kệ mày đổi xác.

(Đánh một tiếng bảng rồi lôi thất)

(Hồi 3 hồi bảng rồi dứt tứ, câu qua bảo chúng; hồi 3 hồi bảo chúng rồi dứt tứ, câu qua hồng chung, hồi 3 hồi chuông rồi dứt tứ; câu qua trống lớn hồi 3 hồi trống rồi dứt tứ. Tiếp thỉnh chuông trống Bát nhã…). Sau đó lễ khai kinh bạch Phật, đại chúng dồn hết nội lực cầu Tam bảo, chư Hộ pháp Già lam mật thùy gia hộ cho trong ngoài đạo tràng an hòa và thanh tịnh.

Học giới luật ngày đầu tiên tối thứ Hai ngày 09/07/18 do hai vị giáo thọ hướng dẫn tại Tổ đường qua chủ đề: Giới-Định-Tuệ là ba môn học thiết thực của giới xuất gia đã được triển khai và mọi người đóng góp sôi nổi; chẳng hạn, người tu sao vẫn còn phiền não, tâm không được an lạc.

            Câu trả lời tâm không an lạc là do ta chưa trong sạch, chưa sẵn sàng tu tập, áp dụng giới luật đúng theo lời Phật dạy: Tâm tịnh thì Phật độ tịnh, như:

 

Tâm dẫn đầu mọi pháp

Tâm chủ tâm tạo tác

Nói năng hay hành động

Hạnh phúc sẽ theo ta

Như ảnh không rời hình

(Kinh Pháp Cú)

 

Muốn thành Phật, chứng thánh đều do ta là tác nhân chính; còn các yếu tố bên ngoài cũng chỉ là phần phụ thuộc mà thôi. Người tu hành ý thức được như vậy, hẳn Đức Phật sẽ được nuôi dưỡng Thánh thai lớn dần rồi phát quang trở thành một vị Phật tương lai như lời Phật dạy. Mong lắm thay mọi hành giả! Được vậy, cõi uế độ trở thành Tịnh độ thanh tịnh giải thoát.

 

 

Viết tại liêu Phương Trượng chùa Pháp Hoa

ngày 10 tháng 07 năm 2018

Sa Môn Thích Bảo Lạc

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/09/2013(Xem: 24043)
Trong khuôn khổ của chương trình Giáo dục thường xuyên thuộc ngành y (Continuing Medical Education) của Viện đại học Harvard. Được tổ chức bởi Trường đại học Y khoa Harvard (Harvard Medical School) mà đứng đầu là các Giáo sư danh tiếng như: Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel vào các ngày 11 và 12 tháng Chín 2013 tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, với một ban Giảng huấn hùng hậu gồm 14 vị Giáo sư đứng đầu là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau đó mới tới các vị Giáo sư danh giá như: Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh.
14/09/2013(Xem: 20561)
Hòa thượng Thích Đạt Đạo, thế danh Huỳnh Văn Hà, sinh năm Tân Mão (1951) tại xã Hạnh Thông, Quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ là Cụ Ông Huỳnh Văn Chánh. Thân mẫu là Cụ Bà Lê Thị Kia, pháp danh Diệu Ca. II. Thời kỳ xuất gia học Đạo Vốn sinh ra trong một gia đình Phật tử thuần thành, nhiều đời tin kính Tam bảo, từ nhỏ Hòa thượng đã có thiện duyên với Phật pháp, được Cụ Ông, Cụ Bà thường xuyên dẫn đi chùa chiêm bái và lễ Phật. Năm 11 tuổi, Hòa thượng quy y năm giới với Hòa thượng Bổn sư thượng Đức hạ Chơn, pháp danh là Quảng Trí và sinh hoạt Gia đình Phật tử Quảng Hương. Với tâm nguyện muốn xuất gia học đạo, năm 13 tuổi (1964), Hòa thượng được Hòa thượng Bổn sư cho phép thế phát xuất gia và hành điệu tại chùa Long Huê, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Hòa thượng vào tu học ở Tu viện Quảng Hương Già Lam, từ năm 1966 - 1968.
12/09/2013(Xem: 8775)
Tôi mới nhận được một tin đáng lưu tâm. Đó là Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon(Phan Cơ Văn) là người gốc Việt Nam có dòng dõi với Phan Huy Chú. Trước đây tôi có đọc bộ sách lịch sử về VN của Bác Sĩ Trân Đại Sĩ ở Pháp viết về dòng dõi của Hoàng Tử Lý Long Tường vào giữa thế kỷ thứ 13 tại Bắc Hàn (rất hay), sau đó được biết Ông Lý Thừa Vãng Tổng Thống Nam Hàn cũng có nguồn gốc từ nhà Lý của VN và Tổng Thống Đài Laon Lý Kính Huy cũng dòng dõi nhà Lý nầy. Nay được biết thêm Ông Ban Ki Moon của Nam Hàn cũng gốc gác từ VN. Như vậy cũng là một niềm vui, nhưng xin kiểm điểm lại việc nầy. Ở Đức, tôi có thể liên lạc với Dr. Phan Huy Oánh là người nhà với Ông Phan Huy Qúat để dò hỏi thêm việc nầy. Đây là những chứng nhân của lịch sử cần nên quan tâm.
07/09/2013(Xem: 19717)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ CÁO BẠCH TANG LỄ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu), trang 7 ¨ ĐÔI LỜI CẢM NIỆM VỀ SỰ VIÊN TỊCH CỦA HT THÍCH MINH TÂM (thơ điếu của HT Thích Thắng Hoan), trang 8 ¨ TƯỞNG NIỆM HT. THÍCH MINH TÂM (thơ HT. Thích Nguyên An), trang 8 ¨ XƯNG TÁN CÔNG HẠNH CỦA CỐ TRƯỞNG LÃO HT. THÍCH MINH TÂM (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 9 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU (GHPGVNTN Hoa Kỳ), trang 10 ¨ SƠ LƯỢC TIỂU SỬ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu và Môn đồ pháp quyến phụng soạn), trang 11 ¨ CẢM NIỆM ÂN SƯ (ai văn của Môn đồ pháp quyến HT. Thích Minh Tâm), trang 12
07/09/2013(Xem: 4601)
Vừa ở khóa Tu học về được 2 ngày, còn mang theo niềm vui, với những gương mặt thân yêu của Quí Thầy, hơi ấm của tình bạn đang vây quanh con; không ngờ chị bạn cùng khóa Tu học gọi điện thoại cho biết Thầy vừa viên tịch tại Phần Lan. Một hung tin như trong mộng làm con quá đỗi bàng hoàng! Làm sao con có thể tin được vì con vừa tham dự khóa Tu học Phật Pháp Âu Châu lần thứ 25 ở Turku- Finland về. Mới đó mà! Thầy mới khai thị cho khóa học, cấp lớp chúng con đã được Thầy giảng dạy một buổi và hằng ngày Thầy đã đến đạo tràng thọ trai cùng Tăng Chúng; động viên cho hàng Phật tử đang hiện diện. Thầy đã vui với thành quả số Phật tử tham dự: 837 người, ngoài sự dự đoán của ban tổ chức vì đường sá xa xôi và tốn kém. Vậy mà tinh thần học Phật vẫn dâng cao!
29/08/2013(Xem: 9863)
THẦY GIÁO LÀNG TÔI (Kính tặng TT.Thích Liễu Pháp, trụ trì chùa Thiên Xá, Đồng Đế, Nha Trang) TỊNH MINH
27/08/2013(Xem: 13716)
Thiền tông truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI, do Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma). Đến thế kỷ thứ VII, Thiền tông truyền sang Việt Nam, do Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Thế là, Thiền tông có mặt ở Việt Nam sau Trung Hoa một thế kỷ. Đến thế kỷ thứ XII, Thiền tông mới truyền vào Nhật Bản. So Việt Nam với Nhật Bản, Thiền tông truyền bá ở Việt Nam trước Nhật Bản đến năm thế kỷ. Song ở Trung Hoa, Nhật Bản về sử liệu Thiền tông rất dồi dào, còn ở Việt Nam thật là nghèo nàn đáo để. Sự nghèo nàn ấy, không phải Thiền tông Việt Nam truyền bá kém cỏi hơn các nước Phật giáo bạn. Bởi vì nhìn theo dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ XIV, chúng ta thấy Thiền tông đã nắm trọn vẹn tinh thần truyền bá Phật giáo và cả văn hóa dân tộc Việt Nam. Những sách vở của người Việt Nam sáng tác hoặc ghi chép lại, không kém gì các nước Phật giáo bạn. Nào là Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Liệt Tổ Truyện, Nam Minh Thiền Lục, Thánh Đăng Thực Lục, Liệt Tổ Yếu Ngữ, Kế Đăng Lục, Tam Tổ T
22/08/2013(Xem: 7851)
Tin buồn do HT Như Điển gởi đi từ Phần Lan vào chiều ngày 8-8-2013, đã làm bàng hoàng và xúc động đối với Tăng Ni và Phật tử gần xa. Ôn đã ra đi trong lúc Phật sự còn ngổn ngang, bỏ lại phía sau mình niềm tiếc nhớ kính thương khôn nguôi của tất cả mọi người.
18/08/2013(Xem: 7460)
Hồi nhỏ ba tôi đưa tôi lên qui y với Hoà thượng Đôn Hậu tại chùa Thiên Mụ (1956), nhưng sau lớn lên học Đại học, vào Đoàn Sinh viên Phật tử (1963), tôi lại tham gia "tranh đấu Phật giáo" tại chùa Từ Đàm (1963-1966). Hoà thượng Thích Thiện Siêu là một trong những vị lãnh đạo của tôi lúc ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]