Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xá Lợi của Ni Trưởng Thích Nữ Như Thủy sau lễ trà tỳ

29/04/201816:03(Xem: 10808)
Xá Lợi của Ni Trưởng Thích Nữ Như Thủy sau lễ trà tỳ
blank
blank
blank
blank
blank

Ngọc Xương Xá Lợi Cố Ni Trưởng Như Thủy, Sư Phụ Thích Thông Lai tặng cho Chùa Phổ Hiền , Worcester MA , 3 viên Ngọc Xá Lợi ( Trụ Trì Ni Sư Thích Nử Như Tâm )
Tu Viện Huyền Không San Jose California , 1 viên Ngọc Xá Lợi .
Đạo Tràng Phổ Hiền San Jose California , 1 viên Ngọc Xá Lợi . ( Phật Tử Thiện Dủng , Phước Hoa )
Tặng Đại diện Phật Tử Úc Châu 1 viên Ngọc Xá Lợi .
Tặng các Phật tử còn ở lại Chuà một miếng xương Xá Lợi .
Làng Adida Indio California , ngày 27 tháng 03 năm 2018.

blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank

Phật làm sao thì cô làm vậy. Phật đi hoằng pháp khắp nơi, không trụ ở chùa nào. Thời Phật thì khổ hơn nhiều, vì Phật phải đi bộ, đi chân đất. Còn cô được đi máy bay, lại có giày, thì đâu có chi là khổ,” Ni Trưởng Thích Nữ Như Thủy từng nói trong một buổi giảng pháp ở Quận Cam, và cũng thường nhắc lại điều đó tại nhiều nơi trên con đường hoằng pháp xa hàng vạn dặm mà Ni Trưởng đã ghé qua, mỗi khi nghe các Phật tử nhắc tới sự nhọc nhằn do sự du hành gây ra trên thể xác của một người nữ đã lớn tuổi mà còn nay đây mai đó, có khi tìm đến những nơi hẻo lánh chỉ để gặp các Phật tử gốc Việt.

 

“Cô theo gót chân Phật, cố gắng làm những gì Phật đã làm, mang lời Phật dạy đến mọi nơi có chúng sanh đang gặp phiền não,” Sư Bà -hay Thầy- Như Thủy luôn khẳng định với giọng mạnh mẽ đầy quyết tâm.
Và Thầy Như Thủy đã làm hết sức mình trong suốt mấy chục năm qua, còn đeo trong mình một chứng bệnh mà đến nay đã tái phát, chấm dứt một cuộc đời hoằng pháp mà có lẽ hiếm thấy ở một vị thầy nào có thể làm được trong hoàn cảnh khó khăn tương tự, cả ni lẫn tăng, cả Việt lẫn không Việt thời nay, như của Ni Trưởng Như Thủy hiệu Huệ Hạnh.

Sư Bà Như Thủy đã rời thế gian vào lúc 8 giờ 15 phút sáng thứ Bảy, 17 tháng Ba, 2018 (nhằm ngày mồng Một tháng Hai âm lịch năm Mậu Tuất), tại Chùa Phổ Hiền ở Worchester trong vùng Boston, tiểu bang Massachusetts, (tính theo giờ California là 5g15 sáng), hưởng thọ 68 tuổi. Ni Sư Thích Nữ Như Tâm tại Chùa Phổ Hiền cho biết tin trên vào trưa thứ Bảy. Trước đó, một số đạo hữu tại Nam California từng báo tin là Sư Bà đã mất vào chiều tối thứ Sáu, nhưng tin đó không chính xác.

Theo lời của Ni Sư Như Tâm tại Chùa Phổ Hiền, Ni Trưởng Như Thủy đã đến Boston và bị sưng chân vào ngày 6 tháng Ba. Thầy được các Phật tử đưa vào bệnh viện để khám bệnh, nơi các bác sĩ báo tin bệnh ung thư của Thầy đã tái phát.

Đến mấy ngày trước, Thầy Như Thủy muốn trở về Chùa Phổ Hiền, nơi mà trong ba ngày liên tiếp, các Phật tử đã đến tụng kinh cho vị Ni Trưởng mà họ rất mến thương, kính ngưỡng. Trong những người tham gia tụng kinh vãng sanh cho Sư Bà Như Thủy có cả Hòa Thượng Thích Thông Lai từ Chùa Tầm Nguyên III, Làng A Di Đà ở Indio, Nam California. Thầy Thông Lai chính là em ruột của Sư Bà Như Thủy.

Ni Sư Như Tâm nói rằng lịch trình an táng chưa được biết chính xác trong ngày thứ Bảy, vì là cuối tuần nên Phòng Giảo Nghiệm Pháp Y của thành phố không làm việc, không thể cấp giấy khai tử cho đến ngày thứ Hai, nên chưa thể làm thủ tục an táng. Ni sư có cho biết là Hòa Thượng Thông Lai sẽ mang tro cốt của Ni Trưởng Như Thủy về Làng A Di Đà, sau khi các nghi thức được hoàn mãn ở Boston.

Nếu đúng là di cốt của Ni Trưởng sẽ được đưa về Nam California thì đây là chặng cuối cùng trong cuộc đời hoằng pháp mà Ni Trưởng đã để lại dấu chân trên khắp nước Mỹ, hầu hết là tại các chùa nhỏ của các ni sư, ni cô từ Texas, Pennsylvania, đến Idaho, Washington.

“Các ni ở chùa xa tại Mỹ ít có dịp được tu học như ở Việt Nam, nên Cô đến giảng dạy cho họ, khích tấn họ trên con đường tu hành đầy khó khăn ở xứ người,” Ni Trưởng Như Thủy từng cho biết lý do tại sao Thầy thường âm thầm tìm đến những nơi có ít người Việt để trợ giúp các ni trẻ.

Trong mấy năm gần đây, mỗi khi qua Mỹ, Ni Trưởng Như Thủy vẫn hướng dẫn các khóa tu lớn cho các ni tụ tập về những nơi như Chùa Đức Viên tại San Jose, Bắc California, hay ở Texas và Washington. Ni Trưởng cũng từng có những buổi giảng ở bên Úc và Gia Nã Đại.

Mấy chục năm trước, Thầy Như Thủy từng biết mình bị ung thư và đã được điều trị tại Sài Gòn.
Khi ấy, theo lời kể được ghi lại trong những cuộn băng thâu âm được các đạo hữu phổ biến rộng rãi ở hải ngoại, trong giây phút thập tử nhất sinh, Thầy Như Thủy có khấn nguyện với Bồ Tát Quán Thế Âm, rằng “nếu đã hết duyên thì con xin được ra đi trong bình yên, nhưng nếu còn duyên, con nguyện dâng cuộc sống còn lại này cho việc hoằng pháp.” Thế rồi sau đó, như có phép màu, Ni Trưởng Như Thủy đã hồi phục sức khỏe mà không cần thuốc men, không cần sự điều trị nào của bác sĩ. “Cô cũng không biết nó đi đâu mất,” Ni Trưởng từng kể với giọng vui đùa với thính chúng.

Và trọn đời còn lại dâng hiến cho Phật sự cùng công việc hoằng pháp thì Ni Sư Như Thủy đã làm, dù rất khó khăn dưới chế độ cộng sản tại Việt Nam sau năm 1975. Ni Trưởng Thích Nữ Như Thủy sanh năm 1950 tại Biên Hòa, xuất gia từ năm 15 tuổi, tốt nghiệp Thủ Khoa Phật Học tại Đại Học Vạn Hạnh (một thành quả đáng kể cho một ni trong khóa học có nhiều vị tăng).

Vì không là thành viên thuộc giáo hội Phật Giáo do Đảng Cộng Sản điều khiển, cuộc sống của Thầy Như Thủy ở Việt Nam rất vất vả, không được xem như một nhà tu. Sư Bà sống trong một cái thất tại miền quê Vĩnh Long, không được phép sinh hoạt hay giảng pháp ở các chùa mà hầu hết nằm dưới quyền kiểm soát của nhà nước. Thế nên Sư Bà đã tìm cách ra hải ngoại, để hiến tặng một khả năng thuyết giảng hiếm có với kiến thức sâu rộng về Phật học.

Với thân hình tầm thước, chất phác, Sư Bà Như Thủy giảng pháp với đôi mắt sáng, hiền từ mà nổi bật là có một giọng nói điềm đạm, ôn tồn, đôi khi xuề xòa, chân thật của người miền Nam, không giấu được tiếng cười qua những mẩu chuyện khôi hài hoặc sự xúc động khi kể chuyện đau lòng.

Tiền cúng dường mà Sư Bà nhận được từ hải ngoại đều được dùng để mua quà tặng cho dân nghèo tại quê Vĩnh Long. Sư Bà từng kể, “Có những gia đình quá nghèo, sống ở nông thôn hẻo lánh không ai biết, quanh năm suốt tháng không mua nổi một chai nước mắm ngon, nên quà Tết mình tặng cho họ nước mắm, dù biết đó là món mặn, nhưng mà họ thèm nước mắm quá, biết sao giờ.”

Sư Bà sống rất gần với người nghèo, những kẻ khốn cùng trong xã hội, vì chính bản thân Sư Bà cũng đã trải qua những khó khăn của một kiếp người. Dưới đây là lời tự thuật của Sư Bà Như Thủy trong một buổi pháp thoại tại Westminster năm 2008, về đời người tu sau khi cộng sản chiếm được Sài Gòn:

“Sư cô chỉ là một tu sĩ rất bình thường. Năm 1975, cô được 25 tuổi. Lúc đó đất nước đang trong một hoàn cảnh rất bối rối, cho nên những người trẻ tuổi không được ghi tu sĩ là một cái nghề, vì nghề là một cái gì sinh nhai, mà tu sĩ không là nghề sinh nhai, cho nên cô ghi lý lịch của mình là làm ruộng, và theo lý lịch đó thì phải đi làm ruộng.

“Trong 15 năm làm ruộng, cô có hơn một năm chăn bò, làm rẫy, chằm nón, tức là làm tất cả những gì các thanh niên trẻ tuổi còn ở lại Việt Nam đều làm.

“Lúc đó những vị trưởng lão tôn túc, một số ra đi, một số ẩn cư, một số phải ở lại thành phố. Những tu sĩ trẻ tuổi mới xuất gia đều phải đi đến các nông trường. Cô bị đôn lên làm giáo thọ vì là người đã học trước nên bắt buộc phải dạy người học sau. Nếu cô không làm thì không ai làm hết.

“Buổi học đầu tiên của cô khai giảng năm 1976 tại thiền viện Viên Chiếu (huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai) dưới cội cây dầu và số thính chúng chỉ có ba em, nhỏ nhất 14 tuổi và lớn nhất 16. Học trò cũng như cô giáo đều mặc y phục lao động, mang sẵn giày, để một bên một cái liềm, một cái cuốc cùng ấm nước. Học từ 1 giờ đến 2 giờ trưa, không bảng đen, không phấn trắng, không tập vở, không kinh sách gì hết.

“Lúc đó hành trang học chỉ là trí nhớ, giống như thời Phật còn tại thế, tức là nghe mà không có sách vở. Cô chỉ kể vài câu chuyện để xách tấn các em. Sau đó vội vã ra đồng làm việc. Thời đó một ngày làm việc từ bảy đến tám tiếng, hoàn toàn không nghỉ kể cả những ngày rằm hay bố tát.

“Lớp học khai giảng được vài tháng thì có các em nhỏ lục tục từ những vùng khác đến. Các em nghe nói có lớp học nên đến để tham học, cũng vào giờ giấc rất khắc nghiệt của Miền Nam thời đó là từ 1 tới 2 giờ trưa. Khắc nghiệt vì quí cô thức dậy từ 3 giờ sáng, ngồi thiền đến 5 giờ, 5 giờ rưỡi ăn cơm thì 6 giờ rưỡi phải ra đồng, 11 giờ đi vào rửa mặt, bắt đầu thọ trai (ăn uống), 12 giờ được nghỉ đến 1 giờ.

“Sau 1 giờ, những vị không đi học thì phải ngồi vá đồ vì tất cả quần áo đều rách hết. Còn riêng những em được đi học thì học từ 1 đến 2 giờ. Các am cốc hoặc các tự viện ở gần đó mà muốn đến tham học thì phải đi bộ từ 5 đến 10 cây số đường rừng.

“Tinh thần cầu học của các em rất cao, cho nên lớp từ từ gia tăng. Khi số thính chúng lên đến 20, 30 người, tu viện phải họp bàn, dành mỗi tuần một ngày cho các em học, nhưng mà giao trước là cho học chứ không cho ăn cơm vì tu viện không có đủ lương thực, thành ra các em phải tự giải quyết lương thực.

“Khi lớp học được ấn định vào ngày Chủ Nhật mỗi tuần, có những em đi xe đạp từ Sài Gòn, hai em một xe, vượt 150 cây số để lội ra tới thiền viện học một ngày, rồi chiều đó đạp xe trở về. Một số em bây giờ đang hiện diện sống rải rác tại Mỹ này.”

*
Trước một tấm gương tu tập và hành đạo phi thường như vậy, tôi rất ngưỡng phục và từng có ý định được đi theo Sư Bà một lần ở Mỹ, để ghi lại bằng hình ảnh và âm thanh về cuộc sống của một vị du tăng không nơi trụ trì, không ngủ giường cao hay sống ở nhà lầu, có khi sống tạm trong một căn chung cư ở xóm lao động của một đạo hữu, muốn tự giặt đồ, và có khi tự nấu mì gói sau những buổi giảng pháp tại nhà của người lạ.
Nhưng Sư Bà đã từ chối ý định viết về cá nhân mình, không xem mình đáng được nhắc tới như vậy. Sư Bà viện lý do là còn phải trở về Việt Nam để sống dưới chế độ cộng sản, nên không muốn được nhắc tới ở Mỹ. Nay Sư Bà đã trút bỏ tấm thân tứ đại, nên tôi mạn phép đăng thư email mà Thầy từng hồi đáp năm 2014, với lòng kính cẩn tột cùng, cho dù biết Thầy có thể quở trách.

“Cô vừa bay đến Philadelphia chiều qua.
“Chuyện em nhắc trong mail, Cô còn giữ […]
“Nhưng, chuyện qua rồi, Cô không muốn nhắc lại, vì Cô chỉ là du khách, còn trở về VN.
“Chuyện báo tại USA là bình thường, nhưng khi báo chí VN share lại… sẽ trở thành bất bình thường và ảnh hưởng đến đời sống ẩn dật của Cô.
“Cô muốn những ngày cuối đời mình được nhẹ nhàng và êm ả hơn. Vì vậy, nhận được mail của em lâu rồi, nhưng cô không reply… Đừng buồn Cô nghen!
“Gửi hai em một bài thơ của Bùi Giáng, đọc đỡ buồn:

“Ngày sẽ hết, tôi sẽ đi không trở lại
Tôi sẽ đi và không biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây, tôi sống dù vui sầu…”
(Bùi Giáng)
Xin mượn lá thư năm xưa để kính tiễn Sư Bà Thích Nữ Như Thủy về Tây Phương Cực Lạc, nơi những vị Bồ Tát như Ngài chắc chắn biết rõ mình sẽ đi đâu, sẽ làm gì, như Phật đã và sẽ tiếp tục làm để cứu độ chúng sanh ở cõi trần còn nhiều khổ đau và phiền lụy này.






 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 7892)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 5873)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 2390)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 5392)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 16479)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 8963)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 4601)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
09/04/2013(Xem: 8707)
Tuyển tập Nhạc Phật Giáo do Nhạc Sĩ Hằng Vang (1933-2021) sáng tác
09/04/2013(Xem: 7408)
Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát là một thành quả to lớn được kết tinh bởi một trí tuệ siêu tuyệt, một khả năng hy hữu, một thời gian liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.
09/04/2013(Xem: 13542)
Vua Trần Nhân Tông là một vị anh hùng dân tộc, có những đóng góp to lớn, nhiều mặt cho đất nước, cho lịch sử. Vua đã trực tiếp lãnh đạo quân và dân nước ta, tập hợp được những nhà quân sự tài giỏi, huy động được tiềm lực của toàn dân, đánh thắng đội quân hung hãn, thiện chiến nhất thời bấy giờ, làm nên những chiến công oanh liệt Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng, Tây Kết lẫy lừng, đưa dân tộc ta lên đỉnh cao của thời đại. Không những thế, vua đã mở rộng biên cương của tổ quốc, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp nam tiến hoành tráng của dân tộc, mà con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ và biết ơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567