Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Quận chúa Hồ Thị Hạnh đến Sư bà Diệu Không

26/10/201721:42(Xem: 10155)
Từ Quận chúa Hồ Thị Hạnh đến Sư bà Diệu Không

Từ Quận chúa Hồ Thị Hạnh
đến Sư bà Diệu Không

su ba dieu khong
Sư bà Thích nữ Diệu Không; Quận chúa Hồ Thị Hạnh.
 









Hơn chục năm trước, khi tôi mang cuốn hồi ký của chị tôi là Nguyễn Thị Thiếu Anh sang tặng người bạn cũ Đồng Khánh năm xưa là chị Cao Xuân Nữ Oanh, tôi đã nghe chị nhắc đến Sư bà Diệu Không đang ở trong chùa Kiều Đàm ngay bên cạnh.

Tôi nghe tiếng bà đã lâu, cứ muốn được diện kiến bà nhưng cứ ngần ngại, mặc dù hai gia đình cũng có thể gọi là chỗ quen biết. Chị Oanh - người ghi chép lại cuốn hồi ký của Sư bà Diệu Không - không chỉ là bạn học với chị tôi mà chị là cháu nội của cụ Cao Xuân Dục, còn Sư bà Diệu Không từng là con dâu của cụ Cao, vị chánh chủ khảo khoa thi Hội năm 1907, kỳ thi mà thân phụ tôi được chấm đậu Hoàng Giáp.

Bác sĩ Hồ Đắc Di - anh ruột Sư bà Diệu Không thì đã quen biết anh Nguyễn Khắc Viện từ lâu do hai người từng du học ở Pháp, lại là đồng nghiệp bác sĩ. Cái cảm giác vừa ước ao được đến gần, vừa e ngại là tình thế con người ta khi đứng trước những nhân vật, những hiện tượng khác thường, đầy sức cuốn hút nhưng cũng lắm bí mật và huyền thoại. Hai tác giả Lê Ngân và Hồ Đắc Hoài (trong cuốn "Đường thiền sen nở" - NXB Lao động và Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2009) cũng đã viết "Hồ Thị Hạnh- Diệu Không- một kỳ nữ Việt Nam trong thế kỷ XX".

Quả là ở Huế - và có lẽ không chỉ riêng với Huế - Sư bà Diệu Không (1905-1997) cùng với bà Đạm Phương và bà Tùng Chi là những nhân vật nổi tiếng do có nhiều đóng góp đặc sắc trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, có ảnh hưởng không nhỏ đến những biến chuyển lịch sử của đất nước ta trong thế kỷ XX.

Từ lâu, giới phật tử ở Huế đã truyền tụng công lao của Sư bà Diệu Không trong việc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, xây dựng ni viện, cô nhi viện ở nhiều địa phương và Viện Đại học Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam (Đại học Vạn Hạnh); bà còn biên dịch nhiều bộ kinh Phật, là một trong những sáng lập viên Nhà in Liên Hoa, Báo Liên Hoa…

Đặc biệt, trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, bà đã thể hiện bản lĩnh của một "kỳ nữ", đi đầu những hoạt động yêu nước, chống ngoại xâm. Có những chuyện tưởng như là huyền thoại, nhưng nay qua cuốn hồi ký của bà vừa được công bố, thì tất cả đều là sự thật.

Như chuyện lúc Mỹ-Diệm đàn áp Phật giáo (năm 1963), sau khi nhiều vị lãnh đạo Phật giáo ở chùa Từ Đàm (Huế) và chùa Xá Lợi (Sài Gòn) bị bắt giam, bọn lính lùng bắt bà ráo riết nhưng không thấy đâu, mặc dù bà vẫn ở trong chùa Hồng Ân. Bà con bảo nhau là bà được Đức Phật che chở; nay đọc hồi ký thì quả là những ngày đó bà "ngồi trì chú Đại bi ở trước bàn Phật của chùa Hồng Ân".

Và bà đã kể lại: "Một số trong bọn chúng biết mặt tôi, thấy tôi ngồi nhắm mắt, chúng nói với nhau: "Chính bà ấy đó!", nhưng có người khác lại nói: "Anh ngu lắm, bà ấy đâu dám ngồi đó, phải đi tìm khắp các hang, các hố…". Lúc bấy giờ, tôi chỉ còn cách nhờ Phật che chở bằng lối trì chú Mật tôn, mà thật đã năm ngày như vậy, nó vẫn chưa bắt được tôi…".

Cũng trong thời kỳ đấu tranh quyết liệt này, khi những người lãnh đạo Phật giáo buộc phải chọn cách tự thiêu để phát động phong trào đấu tranh chống lại các hành động đàn áp của chính quyền, bà đã tình nguyện được đứng đầu đội cảm tử. Chị ruột của bà là Sư bà Diệu Huệ (tức là bà Ưng Úy) cũng xin được hy sinh và đã cùng bà bay vào Sài Gòn, nhưng rút cuộc, các chư tăng họp tại chùa Ấn Quang đã quyết định để Hòa thượng Thích Quảng Đức lãnh sứ mệnh quan trọng này. Vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức đã gây chấn động dư luận thế giới, là một trong những nguyên nhân khiến chế độ Diệm-Nhu sụp đổ.

Trước đó, chuyện bà cứu Hòa thượng Thích Đôn Hậu thoát khỏi án tử hình của thực dân Pháp cũng thật đặc biệt. Đó là khi bọn Pháp tái chiếm Huế, lùng bắt những người mà chúng cho là theo Việt Minh, trong đó có các Thượng tọa Thích Mật Thể, Thích Đôn Hậu…

Khi biết tin Hòa thượng Thích Đôn Hậu bị mật thám Pháp bắt giam và sắp bị xử tử, bà chẳng nề chi thân "liễu yếu đào tơ", chẳng quản hiểm nguy, xin Hòa thượng Thích Mật Hiển cho đến Sở Mật thám tính cách cứu thầy Đôn Hậu. Thật chẳng khác chi một dũng sĩ vào hang cọp; chỉ khác bà vào đấu lý và nhờ thân thế của mình, một số vị có thế lực ở Huế lúc đó đã giúp bà buộc mật thám Pháp chịu đưa thầy Đôn Hậu sang bệnh viện chữa trị vết thương mà chúng gây ra và rút cuộc đã phải thả Ngài về chùa Thiên Mụ…

Đọc hồi ký của Sư bà Diệu Không, tôi trở lại thăm Ni viện Kiều Đàm cùng căn nhà nhỏ của chị Cao Xuân Nữ Oanh ẩn mình một cách khiêm tốn cạnh chùa bên đường Điện Biên Phủ với một nỗi tiếc nuối vì nhiều lẽ. Sư bà Diệu Không đã viên tịch tròn một giáp rồi, cũng vào một ngày tháng 8 năm Sửu; chị Oanh cũng đã qua đời. Thế là tôi chẳng còn dịp được diện kiến để hỏi chuyện bà; mà hồi ký bà để lại chưa đầy trăm trang.
su ba dieu khong 2

Một phật tử đã lãnh hai chữ "Diệu Không", từng viết trong bài thơ "Học kinh Lăng Già": "Trở lại mà tu một chữ không" thì đâu cần kể công lao, nhưng là người "làm chứng" gần trọn cả thế kỷ XX đầy biến động của đất nước, lại từng có dịp gần gũi với nhiều nhân vật lịch sử, trong đó có Vua Duy Tân, Bảo Đại, Nam Phương Hoàng hậu, bà Từ Cung… rồi cụ Phan Bội Châu, bà Đạm Phương, Hải Triều và hầu hết các vị cao tăng trong Phật giáo Việt Nam, bà có thể cung cấp cho hậu thế - nhất là những người làm sử sách -  biết bao nhiêu là sự kiện, chi tiết, nhận định… giúp làm sảng tỏ những "khoảng mờ" trong lịch sử, nếu như tập hồi ký được in sớm hơn rồi nghe bà "diễn giải" những điều mà bà chỉ mới viết một cách cô đúc, chủ yếu theo yêu cầu của "một số nhà văn để họ sưu tầm tài liệu" ("Duyên khởi" - Lời mở đầu hồi ký)…

Dù sao bà cũng đã để lại những "tài liệu" thật đáng quý, "… cho chúng ta nhiều điều mách bảo… Có thể tin lời Sư bà để chấn chỉnh hay xử lý lại những tin tức của thời đại ta đang sống (kể cả buổi giao thời đầu thế kỷ XX)…" - như Giáo sư Chương Thâu đã viết trong "Đôi lời trân trọng" sau khi đọc hồi ký của bà. Quả vậy, cuốn sách nhỏ đã mách bảo chúng ta nhớ lại và suy ngẫm nhiều điều. Chỉ riêng cuộc đời bà trong thời thơ ấu và thanh niên - khi bà còn là quận chúa Hồ Thị Hạnh - đã chứa đựng không biết bao nhiêu là sự kiện đặc biệt với những nỗi niềm không dễ lý giải, gợi chúng ta không thôi ngẫm nghĩ về lẽ sống ở đời.

Thời trẻ, Hồ Thị Hạnh được gọi là "quận chúa" vì thân phụ cô là quận công Hồ Đắc Trung (thân mẫu của ông là con nhà thơ-hoàng tử Tùng Thiên Vương Miên Thẩm), đậu cử nhân năm 1884, từng làm Tổng đốc Nam-Ngãi, rồi Thượng thư Bộ Học, Bộ Lễ suốt mấy triều Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại, sung Cơ mật đại thần.

Phải, thật đáng để suy ngẫm khi một tiểu thư sinh ra trong nhung lụa, xuất thân từ dòng dõi "thế gia vọng tộc", lại khước từ cuộc sống êm ấm giàu sang, dấn thân vào những hoạt động xã hội, ủng hộ những người cách mạng, rồi chọn con đường xuất gia tu hành. Mà đâu phải anh em của bà "thất bại" khi theo con đường quan chức; ngược lại, hầu hết họ đều trở nên những người có danh tiếng.

Ông anh cả Hồ Đắc Khải là Thượng thư Bộ Hộ, hai ông anh Hồ Đắc Điềm và Hồ Đắc Di đều sang Pháp du học và trở nên những trí thức nổi tiếng… Ba bà chị thì một người trở thành bà Ưng Úy (thân mẫu nhà bác học Bửu Hội), người nữa là con dâu Thượng thư Lê Trinh; đặc biệt, bà chị Hồ Thị Chỉ đã được Vua Duy Tân "chấm chọn" để trở thành Hoàng hậu, nhưng rồi nhà vua trẻ trước cuộc khởi nghĩa Trần Cao Vân - Thái Phiên một thời gian ngắn đã "đổi ý" để tránh liên lụy cho gia đình cụ Hồ Đắc Trung (do cụ đã bị giặc Pháp nghi ngờ vì trong vụ án "chống thuế" năm 1908, cụ đã tìm cách cứu Trần Cao Vân và Thái Phiên thoát tội chết), nên về sau đã thành Hoàng phi của Vua Khải Định.

Vậy mà "cô út" Hồ Thị Hạnh ngay từ những năm 20 thế kỷ trước, khi bà Đạm Phương lập "Hội Nữ công", đã xông xáo đi Bắc về Nam vận động gây quỹ từ thiện, lại giữ chân thủ quỹ do bà Trần Thị Như Mân và Hải Triều giao phó để che mắt mật thám. Về giai đoạn này, Sư bà Diệu Không đã viết trong hồi ký:

"… Các anh chị mỗi lần cần tiền để mua giấy in ấn tài liệu hoặc công việc khác, tôi đều ứng trước, có khi phải bù đắp. Được sự ủng hộ của cha, tuy có những lần mật thám gọi tra hỏi, tôi đều được cụ tôi bảo lãnh nên vô sự. Có lần bị kiểm soát gắt gao, anh em đem tài liệu mật giao tôi đưa cất giấu ngay trong Bộ Học…".

Khi Phong trào "Xôviết" 1930 bị giặc Pháp đàn áp, chính "cô út" Hồ Thị Hạnh đã xung phong đem tiền cứu giúp các gia đình bị nạn. Để không bị ngờ vực, cô ra Nghệ An với tư cách là người của Hội Cứu tế Lạc Thiện, một tổ chức cũng do cô đích thân mời rất nhiều người quyền cao chức trọng tham gia, theo gợi ý của cụ Hồ Đắc Trung, để dễ bề hoạt động…

Vậy là vô tình, tôi đã "kể công" của Sư bà Diệu Không, một điều chắc là trái ý bà. Tôi nhắc những việc ấy vì cứ muốn tìm mối liên hệ giữa một "thiên kim tiểu thư" của vị đại quan đến "vai" người có công với cách mạng, cả gan giấu tài liệu mật và xông ra thành Vinh hoạt động "cứu tế" thời "Ba Mươi", cho đến Thích Nữ Diệu Không mấy chục năm sau sẵn sàng tự thiêu thay hòa thượng Thích Quảng Đức khi Phật giáo bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp. Có mối quan hệ "nhân quả" nào ở đây?

Có phải "nhân" là những lời hay ý đẹp bà được học từ nhỏ, ví như câu "Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thanh" (Sách "Luận ngữ" - Có nghĩa là "Thấy điều thiện phải cố làm như không bao giờ kịp; thấy điều bất thiện thì phải sợ hãi như phải thò tay vào nước sôi")? Hay "nhân" là việc bà nội của bà đã bị giặc Pháp giết hại trong ngày "Thất thủ kinh đô" (1885) mà từ lúc chưa đầy 10 tuổi, bà đã nghe thân phụ nhắc đến với nỗi bi phẫn khôn nguôi?... Tôi vô tình "kể công" Sư bà Diệu Không cũng vì nghĩ đến những định kiến đây đó rằng "cái bọn vua quan chỉ toàn một lũ đê hèn bán dân hại nước". Và hóa ra, con gái Huế, cũng không ít người cứng cỏi, dám đương đầu nơi đầu sóng ngọn gió!...

Mà thôi, con người là một tiểu vũ trụ, dễ gì thấu hiểu được hết. Chuyện tình duyên của quận chúa Hồ Thị Hạnh cũng xứng danh hiệu "kỳ nữ". Một tiểu thư tài sắc vẹn toàn như thế, biết bao công tử con nhà gia thế muốn được kết thân - kể cả một "Hoàng tử Cao Miên" khi cô được theo thân phụ sang Cao Miên dự một lễ trọng ở đây; vậy mà rút cuộc, cô đã nhận lời làm "vợ kế" một người con trai của cụ Cao Xuân Dục đang nuôi 6 con nhỏ mồ côi mẹ; hơn nữa, bản thân ông cũng bị bệnh hiểm nghèo, không sống được bao lâu nữa! Vậy nên ngày cưới ai cũng khóc như là một đám tang.

Và bà đã viết bài thơ "Đám cưới" như sau: "Đám cưới hay là một đám tang?/ Cả nhà, lớn, nhỏ, thảy đều than/ Chồng chung, bệnh hoạn tình phai lạt/ Vợ kế, kề vai gánh đoạn tràng/ Kẻ nói là ngu, người nói dại/ Người cho là dở, kẻ cho gan!/ Biết chăng chỉ có người trong cuộc/ Gạy mái thuyền từ phải quyết sang".

Đúng 11 tháng sau, khi Hồ Thị Hạnh được làm mẹ thì chồng cô qua đời!...

Ôi! Dễ gì thấu hiểu được quan niệm về hai chữ "hạnh phúc" của tiểu thư họ Hồ?

Tôi lên thăm chùa Hồng Ân trên một vùng đồi xã Thủy Xuân ngoại vi thành Huế trong một ngày nắng đẹp sau cơn bão số 9, cúi mình trước bảo tháp của Sư bà Diệu Không nhân ngày gỗ sư bà sắp tới (22/8 âm lịch). Một bầu không gian trong lành, yên tĩnh, trong gió nhẹ vi vu qua những hàng thông mọc thẳng, tôi chợt "ngộ" ra: một con người có lòng nhân, đã bước lên "thuyền từ" thì cũng là người có gan hy sinh vì đồng loại, vì nghĩa lớn…



Nguyễn Khắc Phê
 (ANTG)

* Tư liệu trong bài được trích dẫn theo "Đường thiền sen nở" - Hồi ký của Thích nữ Diệu Không)



blank


TT. Huế: Lễ húy nhật cố Ni trưởng Thích nữ Diệu Không (1905 - 1997)



Sáng ngày 15 tháng 09 năm 2014 nhằm ngày 22 tháng 08 năm Giáp Ngọ tại chùa Hồng Ân, phường Thủy Xuân, thành phố Huế; chư Ni bổn tự đã trang nghiêm tổ chức Lễ húy nhật cố Ni trưởng Thích nữ Diệu Không (1905 - 1997).

 

Quang lâm dâng hương tưởng niệm có chư tôn đức Giáo phẩm chúng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế; chư tôn đức Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế; chư tôn đức các tổ đình, tự viện, Niệm Phật Đường cùng quý đạo hữu Phật tử các giới.
Ni trưởng thế danh Hồ Thị Hạnh, Pháp danh Trừng Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh, sinh năm 1905, là con gái út của quan Đông Các Đại học sĩ Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Lương, người làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Xuất thân từ một danh gia vọng tộc, gặp buổi giao thời giữa hai nền văn hóa cũ và mới, nên từ tấm bé Ni trưởng đã được hấp thụ một nền giáo dục dung hòa cả hai truyền thống Đông Tây. Thân phụ muốn cho du học Pháp quốc, nhưng Ni trưởng không đi. Chí hướng của Ni trưởng là khôi phục truyền thống Á Đông và nâng cao tinh thần phụ nữ. Bản hồi cao rộng đó thật khó mà thực hiện nếu không thốt ly đời sống gia đình nhỏ hẹp, bởi thế Ni trưởng đã nhiều lần xin cha mẹ xuất gia. Nhưng vào thập niên 1920, ở Huế chưa có chùa Ni, chỉ có các bà lớn tuổi mới được vào chùa Tăng làm dì vải giúp việc. Ni trưởng lại là con gái út của một vị đại thần đương thời, được nâng niu như cành vàng lá ngọc, cha mẹ không bao giờ cho phép. Trước trở ngại lớn lao đó, Ni trưởng đành ở nhà cho trọn hiếu, chờ dịp thuận tiện. Song thân mong Ni trưởng yên bề gia thất, cứ khuyến khích tham dự các tiệc tùng, dạ hội, nhưng Ni trưởng một mực nuôi chí xuất trần. Thế rồi năm 23 tuổi (1928), vì cảm từ tâm của song thân, Ni trưởng bằng lòng kết duyên với cụ Cao Xuân Sang để nuôi đàn con dại bơ vơ vừa mất mẹ. Thời gian không lâu ông qua đời. Từ đây duyên trần nhẹ gánh, Người đã nuôi con khôn lớn, vừa làm Phật Ni trưởngï hết Ni trưởngùc đắc lực.
Năm 1932 (27 tuổi), Ni trưởng được Hòa thượng Giác Tiên Trụ trì Tổ đình Trúc Lâm truyền thập giới làm Sa-di-ni với pháp tự Diệu Không, nhưng vẫn để tóc để làm Phật Ni trưởngï. Lúc bấy giờ, Ni trưởng thường xuyên giao dịch với người Pháp trong chính quyền Bảo hộ với tư cách đại diện hội An Nam Phật Học mà Ni trưởng là một sáng lập viên.
Sau khi thọ thập giới 12 năm, vào mùa thu năm Giáp Thân (1944), Ni trưởng được thọ Tam đàn Cụ túc tại Đại giới đàn Thuyền Tôn do Hòa thượng Giác Nhiên đệ nhị Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất làm Đàn đầu.
Khi đã thọ giới Sa-di-ni, Ni trưởng bán tư trang và vay mượn thêm để xây cất Ni viện đầu tiên cho nữ giới có chỗ tu học, đó là Ni viện Diệu Đức. Ni trưởng còn góp phần sáng lập và trùng tu nhiều chùa Ni và tịnh viện khác tại Thừa Thiên, Huế như Diệu Viên, Khải Ân, Hồng Ân, Kiều Đàm, Định Huệ, Đông Thuyền, Hồng Đức, Liên Trì, Liên Hoa; Bảo Thắng (Hội An), Bảo Quang (Đà Nẵng), Tịnh Nghiêm (Quảng Ngãi), Ni viện Diệu Quang (Nha Trang). Tại miền Nam, Ni trưởng là người góp công thành lập Ni trường đầu tiên ở Sa Đéc, Ni viện Từ Nghiêm, Dược Ni trưởng, Diệu Giác, Diệu Tràng, Diệu Pháp tại Hố Nai, Long Thành. Ni trưởng còn góp công rất nhiều trong việc xây dựng Viện Đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam là Đại học Vạn Hạnh, cùng với Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Minh Châu,… là những vị khai sáng đầu tiên. Ngồi ra, cơ sở Kiều Đàm tại đường Công Lý (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa) cũng do Ni trưởng cổ động xây cất. Ngồi các cơ sở văn hóa và chùa, Ni trưởng còn góp công đắc lực khai sáng Cô nhi viện Tây Lộc Huế và các Cô, Ký nhi viện trên khắp thành thị thôn quê miền Trung từ 1964 trở đi.
Năm 1952, Ni trưởng góp phần đắc lực trong việc sáng lập nhà in Liên Hoa để in kinh sách Phật giáo và nguyệt san Liên Hoa, do Hòa thượng Đôn Hậu làm chủ nhiệm, Hòa thượng Đức Tâm làm chủ bút, Ni trưởng làm quản lý và biên tập viên, là tờ báo Phật giáo sống lâu nhất tại miền Trung.
Ngồi công tác hộ trì chánh pháp và làm từ thiện xã hội, Ni trưởng còn dịch thuật trước tác và cộng tác với nhiều tạp chí Phật giáo như Viên Âm, Giác Ngộ, Từ Quang, Liên Hoa… Các bộ kinh luận quan trọng do Ni trưởng dịch gồm có Thành Duy thức luận, Du già Ni trưởng địa luận, Lăng già Tâm ấn, Di Lặc hạ sanh kinh, Đại trí độ luận, Trung quán luận lược giải của Long Thụ Bồ-tát, Hiển thật luận của Thái Hư Đại Ni trưởng v.v… Ngồi ra, Ni trưởng còn sáng tác rất nhiều tập thơ văn khuyến tu và giáo dục phụ nữ, như Câu chuyện đạo lý, v.v…
Mặc dù Phật Ni trưởngï đa đoan, Ni trưởng luôn luôn học hỏi, tham cứu kinh sách đại tiểu thừa, và thường nhập thất tham thiền tại chùa Khải Ân, núi Châu Ê. Tuy mang thân nữ, Ni trưởng gần như không có thói nhi nữ thường tình mà Phật thường thống trách. Nguyện của Ni trưởng là đời đời mang thân nữ để độ cho nữ giới và không cầu sinh Tịnh độ: “Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp, con xin lăn lóc cõi Ta-bà”. Có lẽ do hạnh nguyện ấy mà đến đâu Ni trưởng cũng được phụ nữ đoanh vây, già trẻ lớn bé đều yêu mến. Và cũng có lẽ nhờ Ni trưởng am hiểu nhân tình, tùy cơ giáo hóa, có biện tài vô ngại. Nhưng trên tất cả, chính nhờ tâm hồn Ni trưởng bao dung quảng đại, bình đẳng đối với người thân cũng như sơ, xa cũng như gần. Câu thơ Ni trưởng làm “Lưới trời bao phủ một tình thương” đủ nói lên chính xác tâm hồn Ni trưởng vậy.
Mặc dù là vị hộ trì đắc lực cho chư Tăng tu học, mặc dù được đặc cách học chung với chư Tăng trong các lớp  giảng đầu tiên tại Huế, Ni trưởng không vì vậy mà xao lãng Bát kỉnh pháp. Ngược lại, đối với chư Tăng, Ni trưởng luôn luôn kính nể dù là một vị Tỷ kheo tân thọ giới hay chỉ một chú tiểu, Ni trưởng cũng đối xử lễ độ và hết lòng nâng đỡ.
Đối với Ni chúng, Ni trưởng là bạn của tất cả mọi người, ai gần Ni trưởng cũng kính mến như bậc Thầy do bởi bản tính bình dị, uy nghi khả kính. Tính bình dị của Ni trưởng quả là một tấm gương cho Ni giới: Xuất thân từ nơi phú quý, mà khi vào chùa, Ni trưởng đã sống một cuộc đời hồn tồn buông xả, đối với bốn vật cần dùng là ẩm thực, y phục, sàng tọa và dược phẩm Ni trưởng không chú trọng, có gì tốt đẹp đều đem cúng dường bố thí. Trước khi ngọa bệnh, nơi thường trú của Ni trưởng tại chùa Hồng Ân chỉ là một gian nhà thấp u tối, nhưng Ni trưởng không hề quan tâm Ni trưởngûa chữa, vì tâm hồn Ni trưởng luôn luôn để vào những chương trình rộng lớn hộ trì Tam Bảo, phục vụ chúng sinh đương thời và mai hậu.
Năm 1978, sau một cơn bệnh Ni trưởng đã tắt thở, được chư Tăng vây quanh tiếp dẫn. Nhưng khi thời kinh hộ niệm chấm dứt, Ni trưởng cô Bảo Châu đau đớn khóc thét lên, Ni trưởng bèn giật mình tỉnh dậy vì bi nguyện độ sanh. Kể từ đấy, Ni trưởng thường dạy: “Khi đã thấy cảnh Tịnh độ rồi thì tôi xem cảnh đời này tồn là giả.” Có lẽ nhờ thấy giả mà Ni trưởng kham nhẫn được mọi Ni trưởngï. Gần 5 năm già yếu ngọa bệnh, Ni trưởng  luôn luôn hoan hỷ với mọi người.
Mặc dù già bệnh, tinh thần Ni trưởng luôn minh mẫn cho đến giây phút cuối, mỗi khi ai có việc quan trọng đến thỉnh ý, Ni trưởng đều dạy những lời khuyên hết Ni trưởngùc sáng suốt. Cách nay 2 tháng, Ni trưởng còn phát tâm cúng dường cơ sở Hồng Đức cho Giáo hội để Ni trưởng ứng dụng trong việc đào tạo tăng tài (cơ sở đó nay là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế).
Như một trái cây đã chín mùi, như đi cuộc hành trình đã đến đích, Ni trưởng an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 2 giờ khuya ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu, tức 23 tháng 9 năm 1997, hưởng thọ 93 tuổi đời với 53 hạ lạp.
Một số hình ảnh của buổi lễ:

blank

  Chùa Hồng Ân - Huế

 

  Di ảnh cố Ni trưởng Thích nữ Diệu Không

  Hòa thượng Thích Tánh Tịnh niệm hương bạch Phật

 

 

 

 

 

  Hòa thượng Thích Tâm Thọ cử hành buổi lễ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

   

Ban Thông tin Truyền thông GHPGVN tỉnh TT. Huế
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/09/2018(Xem: 7787)
Chúng tôi hổ thẹn mang nặng thâm ân 2 bậc Thầy lớn, đã để lại trong đạo nghiệp mình nhiều dấu ấn giáo dưỡng thâm trọng, dù cho có nghìn đời cố gắng cũng chưa thể báo đáp hết:
03/09/2018(Xem: 17391)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
23/08/2018(Xem: 6254)
Tôi thật may mắn được biết đến và là học trò của Hòa thượng Thích Minh Châu. Tôi có may mắn lớn này là nhờ bác Vũ Chầm, Chủ tịch VinaGiày, một tấm gương sáng về tu tập và phụng sự. Thế rồi mỗi lần từ Hà Nội vào Sài Gòn là tôi thường tìm mọi cách đến thăm Thầy. Mỗi lần được bên Thầy là một cơ hội được học hỏi, được dạy dỗ và chỉ bảo, được nhận năng lượng và bình an.
23/08/2018(Xem: 8365)
Thường trực BTS GHPFVN tỉnh Khánh Hòa vừa ký Cáo phó kính tiếc báo tin HT.Thích Đức Lưu, Ủy viên Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Trưởng BTS GHPGVN huyện Cam Lâm, Ủy viên Ban Tăng sự Phật giáo tỉnh, trụ trì chùa Pháp Vân tân viên tịch. Theo cáo phó, HT.Thích Đức Lưu do bệnh duyên.đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 18 giờ, ngày 21-8-2018 (11-7-Mậu Tuất) tại chùa Pháp Vân, xã Cam Hòa, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa . Trụ thế 64 năm, hạ lạp 42 năm. Lễ nhập kim quan lúc 15g, ngày 22-8-2018 ( 12-7-Mậu Tuất), kim quan được tôn trí tại chùa Pháp Vân Lễ viếng bắt đầu từ 8 g, ngày 23-8-2018. Lễ tưởng niệm vào lúc 14g, ngày 25-8-2018 (nhằm 15-7-Mậu Tuất), sau đó 15g phụng tống kim quan nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Pháp Vân, Cam Lâm.
23/08/2018(Xem: 11750)
Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn tiếng anh chia sẻ với Phật tử thế giới
18/08/2018(Xem: 5779)
Lễ Huý Nhật Lần thứ 1 Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu tại Chùa Phật Quang, Victoria, Úc Châu. Thứ Bảy, 18-8-2018 Chương Trình Lễ Huý Nhật: - Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm - Cung An Chức Sự (NS Thích Nữ Chân Kim) - Nghi cúng tiến Giác Linh Đức Trưởng lão Hòa Thượng - Lễ Chào Phật Giáo Kỳ và một phút nhập Từ Bi Quán - Tuyên bố lý do và giới thiệu chư Tôn Đức tham dự ( MC TT Thích Nguyên Tạng) - Cung tuyên Tiểu Sử Cố Trưởng Lão Hòa Thượng ( TT Thích Tâm Phương - Lời Đạo Tình của Trưởng Lão HT Thích Huyền Tôn, Phó Thượng Thủ GHPGVNTTG, Tăng Giáo Trưởng GHPGTNHNUĐLTTL Viện Chủ Chùa Bảo Vương - Lời tưởng niệm về Đức Trưởng Lão HT Thích Tâm Châu ( HT Thích Tịnh Đạo) - Dâng hoa cúng dường Giác Linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng - Ngâm thơ của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Truy niệm Giác Linh. (Phật tử Tuệ Minh) - Cảm Tạ của ban tổ chức. (ĐĐ Thích Chân Phong) - Cúng Dường Trai Tăng và hoàn mãn.
15/08/2018(Xem: 7788)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 6853)
Cách đây hơn một tuần, trong khi tìm kiếm tài liệu để viết lại tiểu sử tóm tắt của Ni Sư Thích Nữ Giới Hương với các chi tiết chọn lọc, cần thiết, đã được cập nhật,theo ý của chúng tôi. Chúng tôi mới bỗng nhớ ra rằng: Năm 1978, lúc Ni Sư mới 15 tuổi, Ni Sư xuất gia với Sư Bà Hải Triều Âm (Đại Ninh - Việt Nam). Như vậy, tính đến năm 2018 này, là năm kỷ niệm 40 NĂM XUẤT GIA CỦA NI SƯ THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG. Tuy mới biết và được hầu chuyện Ni Sư chỉ năm mười phút ngắn ngủi tại Chùa Hương Sen, rồi sau đó đọc một số tác phẩm, những bài pháp luận, thuyết trình… của Ni Sư. Chỉ ngần ấy thôi, nhưng chúng tôi vẫn luôn lưu giữ cái cảm nhận rất chân thành và nghiêm túc này: Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là người rất mực khiêm cung, suy nghĩ cẩn mật. Rằng Ni Sư là người kiên tâm trì chí tu học và hành Đạo suốt 40 năm ấy; Rằng Ni Sư Thích Nữ Giới Hương là “Người gieo duyên Phật pháp, gieo duyên Đạo”* không ngừng nghỉ và không biết mỏi mệt. Và rất nhiều đức khác mà chúng tôi kính trọng, ngưỡng vọng
11/08/2018(Xem: 7799)
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn: Chúc thọ Đức Đại Thụ Tăng Thống Thích Quảng Độ. Cung Kính Chúc Thọ Đại Thụ Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ Trí Lực câu viên Đạo Lực Tu Di ! Úc Châu Tiểu đệ HT Thích Huyền Tôn (91 tuổi).
03/08/2018(Xem: 24884)
Hòa Thượng Thích Minh Tuyền vừa viên tịch tại Nhật Bản, Hòa Thượng THÍCH MINH TUYỀN thế danh LÊ MINH TUYỀN sanh ngày 08 tháng 09 năm 1938 (Mậu Dần), tại thôn Bình Hội, thị trấn Chợ Lầu, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Xuất gia năm 7 tuổi (Năm Ất Dậu (1945) tại Chùa Bửu Tích thuộc thôn Bình Liêm, xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Năm 1970, HT đến du học tại Nhật Bản và lưu trú đến ngày nay. Vì tuổi cao sức yếu, Nài đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 3giờ 35 phút sáng ngày 22 tháng 08 năm 2017 (nhằm ngày 01 tháng 07 nhuần năm Đinh Dậu), trụ thế 80 năm, 60 hạ lạp. Chương trình Tang Lễ của Hòa Thượng Tân Viên Tịch sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất. Ngưỡng mong Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và Quý Đồng Hương Phật Tử gần xa nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Tân Viên Tịch Thích Minh Tuyền Cao Đăng Phật Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com