Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi tìm tư liệu về Sư Cô Diệu Định, vị Pháp thiêu thân năm 1966

28/04/201603:05(Xem: 8672)
Đi tìm tư liệu về Sư Cô Diệu Định, vị Pháp thiêu thân năm 1966

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (5)Theo vết thời gian đi tìm tư liệu về một vị

Thánh Tử Đạo Vị Pháp Thiêu Thân:

Sư Cô Thích Nữ Diệu Định

 

 

1. Nhân duyên:

 

Lửa! Lửa cháy ngất Tòa Sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành Thơ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,
Ánh Đạo Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên...
Ôi, đích thực hôm nay Trời có mặt!
Giờ là giờ Hoàng-Đạo nguy nga.
Muôn vạn khối sân-si vừa mở mắt
Nhìn nhau: tình huynh-đệ bao la.
Nam mô ĐỨC PHẬT DI ĐÀ
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?

Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,

NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây
Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ
[…]

 

Đây là một đoạn thơ tuyệt vời trích trong bài thơ Lửa Từ Bi của nhà thơ Vũ Hoàng Chương.

 

Năm 2013 vừa qua,  chúng ta vừa cử hành trọng thể Lễ Kỷ Niệm 50 năm Bồ Tát Quảng Đức khắp nơi trên thế giới. Một con người vĩ đại với một hy sinh vĩ đại vì tiền đồ đạo pháp và dân tộc, không bút mực nào tả xiết, không có sự hy sinh nào có thể sánh bằng, thật như lời thơ của thi sĩ họ Vũ: “Một Mặt Trời Mới Mọc“.

 

Sau Pháp nạn 1963, Phật Giáo Việt Nam vẫn liên tiếp bị đàn áp do bởi những tham vọng của những kẻ nắm quyền bính trong tay. Noi gương đức Bồ Tát, hàng hậu sinh cũng có những con người dám hiến dâng cuộc đời mình cho sự trường tồn của đạo pháp, đã tự lấy thân mình làm đuốc tuệ  cảnh tỉnh bạo quyền ngừng tay đàn áp Phật Giáo. Họ đã nói lên tiếng nói cho nhân loại thấy được tinh thần vô úy, lòng từ bi rộng lớn trong lòng Phật Giáo. Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng.

 

Phật Đản năm 2016, cũng là dịp kỷ niệm 50 năm ngày vị pháp thiêu thân của Sư Cô Diệu Định. Riêng với Phật Giáo hai tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng (hai tỉnh thành có khi là một, có khi chia ra làm hai) thì Sư Cô là vị Thánh Tử Đạo duy nhất cho đến hôm nay. Tuy là vị Thánh Tử Đạo duy nhất, nhưng theo thiển ý của chúng tôi, thì chúng ta vẫn chưa trân trọng đúng mức đối với sự hy sinh to lớn của Sư Cô. Sách vở nhắc đến Sư Cô còn quá hời hợt, danh sách Thánh Tử Đạo có khi có ghi, có khi bỏ sót. Do nhân duyên ấy, chúng tôi được sự khuyến khích của Hòa Thượng Thích Như Điển và sự hỗ trợ của Ni Sư Diệu Như (là sư muội của Sư Diệu Định) sưu tập được những tài liệu ít ỏi này và xin phổ biến ra.  Kính xin chư Tôn Đức, chư thức giả và quý đạo hữu Phật tử bốn phương, ai có những tin tức tài liệu gì về công đức hy sinh vì đạo của Sư Cô xin cho chúng tôi biết để gom góp thêm. Xin thành thật tri ân trước.

 

 

2. Tiểu sử và một vài tư liệu, hình ảnh

 

Dựa theo bia mộ tại Bảo Tháp, Sư cô Thích Nữ Diệu Định có thế danh là Đỗ Thị Cửu, pháp danh: Nguyên Huệ. Sư cô  sinh ngày 28 tháng 6 năm 1937 - tức âm lịch ngày 20 tháng 5 năm Đinh Sửu - tại làng Bình Đào, huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam. Thân Phụ của Sư là cụ ông Đỗ Thêm, pháp danh: Thanh Bằng. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lý, pháp danh: Nguyên Tánh. Gia đình sau dời về sống tại Hội An, gần Chùa Sư Nữ Bảo Thắng. Gia đình có tất cả 10 người con, đã mất hết 7 người, hiện còn lại 3 người. Cả gia đình đều quy y Tam Bảo với Sư Bà thượng Đàm hạ Minh tại chùa Bảo Thắng Hội An. Sau này Sư Bà dời về ở chùa Bảo Quang Đà Nẵng.

 

Từ nhỏ Sư Cô theo thân phụ thường xuyên lui tới chùa tụng kinh niệm Phật. Nhờ nhân duyên đó cho nên đến năm 19 tuổi (1956), sư cô xuất gia tại Chùa Sư Nữ Bảo Thắng Hội An với Sư Bà thượng Đàm hạ Minh .

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (1)Thánh Tử Đạo Thích Nữ Diệu Định

(1937- 1966)

 

Su Co Dieu Thanh

Sư Cô Diệu Thành, em ruột của Sư Diệu Định

 

Trong gia đình Sư Cô hiện nay (9/2014) còn 3 chị em: em trai Đỗ Thanh Lê , pháp danh: Nguyên Tú hiện ở Hội An. Và còn hai em gái. Một là cô Đỗ Thị Cúc tức Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Diệu Thành, pháp danh: Nguyên Hương. Xuất gia và là đệ tử Sư Bà thượng Đàm hạ Minh. Hiện đang tòng tu tại chùa Bảo Thắng Hội An. Ngoài ra còn có một em gái khác tên là cô Đỗ Thị Hoa , pháp danh : Nguyên Quả, hiện đang ở tại chùa Bảo Quang Đà Nẵng với Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Cảnh.

 

Bắt đầu từ khi xuất gia thế phát dưới sự hướng dẫn và giảng dạy của Sư Bà, Sư cô Diệu Định rất tinh tấn tu học, tỏ ra cần mẫn trong mọi công việc nên được Sư Bà thương mến và đại chúng kính trọng. Hành điệu tại chùa Bảo Thắng được hai năm, Sư Bà nhận thấy Sư cô là người thông minh có căn khí nên vào năm 1958 cho theo học tại Phật học Ni viện Hồng Ân tại Huế. Năm 1962, Sư cô theo chân Sư Bà Bổn Sư ra tu học tại chùa Bảo Quang Đà Nẵng. Năm 1960 Sư cô được Sư Bà cho thọ Sa Di Ni giới với pháp tự Diệu Định. Sau đó cũng tại Đà Nẵng vào năm 1964 Sư được Thọ giới Thức-Xoa-Ma-Ni.

 

Tiếp sau biến cố 1963, vào năm 1966 Phật giáo Việt Nam lại một lần nữa bị chính quyền thẳng tay đàn áp. Chính phủ Thiệu-Kỳ tuyên bố xé bỏ hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khiến Phật tử rất công phẫn và lại tiếp tục xuống đường tranh đấu cho sự sống còn của đạo pháp. Riêng tại miền Trung tình hình lại càng căng thẳng hơn. Đặc biệt là Quảng Nam và Đà Nẵng, chính các vị tướng lãnh, sĩ quan trong quân đội cũng đã bất mãn với thái độ coi thường dân chúng của chính phủ Thiệu Kỳ nên đã tuyên bố ly khai với quân đội trung ương và hết lòng ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật giáo. Nguyện vọng của toàn dân bấy giờ là muốn có một Quốc Hội Lập Hiến và một chính phủ dân sự, nhưng đã bị chính quyền quân sự thẳng tay trừng trị. Chính quyền còn ra lệnh tấn công vào Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng nhưng Tăng Ni và Phật Tử Quảng Nam Đà Nẵng dù trong tay không có vũ khí nhưng vẫn không chùn bước. Tại trước cửa Chợ Mới Đà Nẵng, chư Tăng Ni và Phật Tử đã sắp hàng dài ngồi giữa đường nhựa trong cơn nắng chang chang để ngăn chận đoàn xe tăng từ phi trường tiến về Chùa Tỉnh Hội. Tăng Ni trẻ Đà Nẵng thành lập ngay Đoàn Thanh Niên Tăng Ni Quyết Tử do Đại Đức Thích Minh Tuấn làm Trưởng Đoàn, hai vị phó Đoàn bấy giờ là Đại Đức Thích Tịnh Từ và Sư Cô Thích Nữ Diệu Tâm (các vị này hiện nay vẫn còn sống và đã là Hòa Thượng hay Sư Bà), quy tụ hầu hết tất cả Tăng Ni trẻ của tỉnh nhà tham gia. Trong số những thành viên lúc ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định, vị tu sĩ nhỏ người, ít nói nhưng tham gia tích cực tất cả các hoạt động của Đoàn Thanh Niên Tăng Ni Quyết Tử. Vào ngày 1.6.1966 Thượng tọa Thiện Minh, một vị lãnh đạo của Giáo Hội bị ám sát hụt bằng lựu đạn sau một cuộc đàm phán với chính quyền. Tin đã lan nhanh mọi nơi, khiến tất cả những người con Phật đều bàng hoàng sửng sốt. Nước đã sắp vỡ bờ, trong một buổi họp khẩn nội bộ vào buổi tối ngày 02.06.1966 tại Chùa Bảo Quang Đà Nẵng, có hai vị Ni xin phát nguyện noi gương đức Bồ Tát Quảng Đức và Sư Bà Thanh Quang ở Huế đã  tự đốt thân mình để cúng dường thân xác này cho đạo pháp. Hai vị Ni ấy là Sư Cô Diệu Lương và Sư Cô Diệu Định. Quyết định chưa ngã ngũ thì vào sáng ngày Phật Đản Rằm tháng tư năm Bính Ngọ (tức ngày 03.06.1966 dương lịch) Sư Cô Diệu Định tự tay quấn bông và thấm xăng sẵn vào mình, lên Chùa đãnh lễ Phật và Sư Phụ và xin phép tự thiêu cúng dường Tam Bảo nhân Phật Đản Phật lịch 2510. Sư Cô tự đi bộ đến Chùa Hải Lạc (địa chỉ hiện nay: số nhà 39 đường Triệu Nữ Vương, Đà Nẵng).

 

Theo lời kể lại của Phật Tử Nguyễn thị Trử, pháp danh Nhuận Quán, đệ tử của Cố Hòa Thượng Thích Quang Thể, nguyên là đoàn sinh Gia Đình Phật Tử Chùa Tỉnh Hội (Pháp Lâm) Đà Nẵng, hiện ở tại Thăng Bình Quảng Nam như sau:

 Phat tu Nhuan Quan

 

Phật Tử Nguyễn thị Trử, pháp danh Nhuận Quán

„Tôi cùng đi với Sư Cô từ Chợ Mới đến Chùa Hải Lạc nhưng không biết chuyện gì. Sư Cô nét mặt vẫn vô cùng bình thản. Ngày thường Sư Cô cũng đã thường rất ít nói. Tôi hỏi Sư Cô là  hôm nay đến Hải Lạc có việc gì, có về Chùa Tỉnh Hội không? Sư Cô chỉ cười và không nói gì thêm. Khi chia tay Sư Cô chỗ ngã ba Chùa Bát Nhã (có tượng Phật Quán Thế Âm) thì tôi đi thẳng đến Chợ Cồn. Chỉ khoảng hơn một giờ sau tôi nghe người ta nói là có vị tu sĩ tự thiêu tại Chùa Hải Lạc, tôi biết ngay đó là Sư Cô Diệu Định, tôi vội chạy ngay về Hải Lạc. Trên đường đi, tôi thấy có nhiều Cảnh Sát Dã Chiến đang rần rần kéo đến. Tuy vậy tôi vẫn lẽn vào được đến sân Chùa Hải Lạc thì thấy đã có rất nhiều Phật Tử vây quanh, niệm Phật và đảnh lễ Sư Cô. Phật tử đến càng ngày càng đông, Cảnh Sát Dã Chiến phải dùng vòng dây kẽm gai vây quanh. Sau đó họ cho mang xác Sư đi. Khi xác đã mang đi Phật Tử chúng tôi hôm đó ai cũng thấy ngay tại chỗ Sư ngồi, chỗ vết cháy có hình một đóa hoa sen màu đen hiện ra rất rõ, đường kính khoảng hơn một mét. Chúng tôi ngơ ngác chỉ biết đảnh lễ đóa sen và khóc òa lên...

Hai ba ngày sau, đám tang Sư có hàng vạn Phật Tử tham dự, kéo dài khoảng 7, 8 cây số, từ Chợ Mới đến tận Chợ Cồn.“

 



Lúc ấy Sư vừa 27 tuổi đời, 10 năm xuất gia trong đạo.

Bây giờ ngay tại địa điểm Sư Cô đã vị pháp thiêu thân này có một Tượng Đài Kỷ Niệm.

  

Đây là những hình ảnh Tượng Đài ở Chùa Hải Lạc Đà Nẵng (hình chụp vào tháng 9 năm 2014):

 

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (4)

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (5)

Quang cảnh Tượng đài

Tượng (chụp gần)

 

 Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (6)

 

 

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (7)

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (8)

 

Địa chỉ Chùa Hải Lạc được ghi trên bảng

Hội Quán Gia Đình Phật Tử trong khuôn viên Chùa

(không thấy số nhà ở cổng Chùa)

Bia đá (chữ đã mờ, khó đọc,

ghi những dòng chữ sau):

Cố Ni Sư

Thích Nữ Diệu Định

Vị Pháp thiêu thân

15.04.Bính Ngọ (1966)

 

 

Tượng đài được dựng sát vào tường phía bên trái từ cổng vào. Ước lượng tượng đài cao 2,20-2,50 mét. Bức tượng Sư Diệu Định cao khoảng 80 cm, đài sen khoảng 70 cm. Tượng được đặt trên một bệ xây. Phía trước khắc những chữ nhưng đã mờ theo thời gian, cố gắng lắm mới đọc được những chữ như ghi ở trên.

Hai bên có hai câu đối ghi bằng chữ Việt, bị các cây mọc che khuất:

 

Hai câu đối:

 

Vị pháp danh lưu quang Phật sử

Thiêu thân thế tại đối Nam thiên

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (9)

 

 

Ngoài ra tại Khu Nghĩa Trang Tổ Đình Phước Lâm Hội An (xã Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam) còn có Bảo Tháp của Sư cô, do đồng môn Chùa Sư Nữ Bảo Quang Đà Nẵng  và gia đình đồng phụng lập. Sau đây là vài hình ảnh Bảo Tháp.

 

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (10)

 

Hai trụ trước Bảo Tháp cũng ghi câu đối (như Tượng Đài ở Đà Nẵng):

 

Vị pháp danh lưu quang Phật sử


Thiêu thân thế tại đối Nam thiên

 

 Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (11)

Bia văn ghi phía trước Bảo Tháp

bằng chữ Hán như sau:

 

Lâm Tế Tôn tứ thập tứ thế,

Tỳ Kheo Ni thượng Nguyên hạ Huệ,

tự Diệu Định, Đỗ Tánh bửu tháp

Phật lịch 2510, Vị Pháp Thiêu Thân

Bính Ngọ tứ ngoặc thập ngũ nhật

 

 

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (12)

Bia ở bức tường sau Tháp

ghi bằng tiếng Việt


Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (13)

Nhìn từ phía sau

Su Co Dieu Dinh_vi Phap thieu than (14)Nhìn từ bên trái

 

Nói về công hạnh của Sư Diệu Định, một tác giả đáng tin cậy hiện sống ở Hội An, Quảng Nam đã ghi lại trong một tác phẩm như sau:

 

„Sư cô noi theo hạnh nguyện của Bồ tát Quảng Đức cúng dường thân xác này cho Đạo pháp. Sư cô nói: “Sự tự thiêu của tôi không phải vì một hoài vọng riêng tư ích kỷ, mà sự tự thiêu của tôi là để khai tâm cho những ai đang âm mưu đàn áp và tiêu diệt Phật giáo”.

 

Sau khi được Sư Bà Bổn sư đồng ý, Sư cô đã chuẩn bị rất chu đáo cho sự hy sinh cao cả của mình. Vào sáng ngày 15 tháng 4 năm Bính Ngọ (3/6/1966), Sư cô quấn bông và tẩm xăng vào mình, lên chùa lễ Phật và đảnh lễ Sư bà Bổn sư lần cuối. Sau đó, Sư cô đi đến chùa Hải Lạc (nay nằm đường Triệu Nữ Vương-Đà Nẵng),  ngồi kiết già và ung dung bật quẹt châm lửa đốt mình cúng dường Tam Bảo, giải nguy pháp nạn. Sau nửa giờ, thi thể Sư cô từ từ ngã xuống trong tiếng niệm Phật và khóc than của Tăng Ni và Phật giáo đồ hiện diện.


Sự hy sinh cao cả của Sư cô Thích Nữ Diệu Định đã nói lên được tinh thần bất khuất của Tăng Ni Phật tử Quảng Nam Đà Nẵng trước sự kỳ thị tôn giáo của chính phủ Thiệu Kỳ. Với 27 tuổi đời và trải qua 10 năm tu học, Sư cô đã hiến trọn tuổi trẻ của mình cho sự trường tồn của đạo pháp. Ngọn lửa Thích Nữ Diệu Định đã kế thừa ngọn lửa thiêng của Bồ tát Quảng Đức và chư Thánh Tử Đạo nói lên nguyện vọng tha thiết của Tăng Ni Phật tử Việt Nam cho sự hòa bình, độc lập và tự do tôn giáo của Dân tộc. Lịch sử Phật giáo Việt Nam ghi nhận sự hy sinh cao cả ấy và toàn thể Tăng Ni Phật tử đã trân trọng suy tôn Cô là bậc Thánh Tử Đạo vị pháp thiêu thân […]“.

 

(Thích Như Tịnh: Hành trạng chư Thiền Đức Xứ Quảng. Hà Nội, NXB Tôn Giáo, 2008, tr.346)

 

Bắt đầu từ năm 1968, để giúp đỡ những trẻ em nạn nhân chiến tranh trong những năm cao điểm của cuộc chiến Việt Nam và những hậu quả của trận lụt lớn năm Thìn, Giáo Hội Phật Giáo tại Đà Nẵng đã ủy nhiệm Sư Bà thượng Đàm hạ Minh thành lập Cô Nhi Viện Phật Giáo tại địa chỉ 222 đường Phan Chu Trinh (kế Phật Học Viện Phổ Đà). Cô Nhi Viện Phật Giáo này đã có thời gian vinh dự mang tên vị Thánh Tử Đạo của tỉnh nhà: Cô Nhi Viện Diệu Định. Cô Nhi Viện Diệu Định đã giúp đỡ hằng trăm cô nhi (lúc đông nhất có 170 cô nhi), cho các em đến học văn hóa tại trường Bồ Đề hay hướng dẫn tạo nghề nghiệp cho các em. Hoạt động đến tháng tư năm 1975, thì Cô Nhi Viện Diệu Định bị đóng cửa.

 

3. Mong ước, những việc cần bổ sung thêm

Trong quá trình tìm hiểu, sưu tập tư liệu về cuộc đời và hạnh nguyện của Sư Diệu Định, chúng tôi nhận thấy còn nhiều chỗ khiếm khyết.

-Thiếu những nhân chứng thật trong giờ khắc Sư tự thiêu. Theo lời kể lại, thì có cả trăm Phật Tử hiện diện lúc đó. Ai có chứng kiến và có thể giúp chúng tôi viết hay nói hoặc kể lại những tiến trình cuộc tự thiêu của Sư?

- Thiếu những hình ảnh về Sư, về cuộc tự thiêu.

- Ai biết nơi nào có sách báo, tài liệu văn kiện gì liên hệ với sự kiện tự thiêu, về công cuộc tranh đấu Phật Giáo tại Đà Nẵng 1965-66 xin vui lòng báo cho chúng tôi biết.

 

Xin vui lòng liên lạc qua Email:  [email protected]

 

Rất mong thay.

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.

 

Xin thành kính đê đầu đảnh lễ Thánh Tử Đạo Vị Pháp Thiêu Thân thượng Diệu hạ Định.

  

Nguyên Đạo (Đức Quốc)











Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 4831)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37183)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6133)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6106)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5741)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5640)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5915)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5455)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8763)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 11842)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]