Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ân Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Bảo Vương

22/04/201609:06(Xem: 5841)
Ân Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Bảo Vương

HT Huyen Ton (14)
Ân Đức của
Trưởng Lão Hòa Thượng Bảo Vương

 

                                                         Chùa Bảo Vương cảnh chùa thanh tịnh

                                                         Gió hài hòa suối vịnh chim ca

                                                         Bao người con Phật gần xa

                                                         Một lòng ngưỡng mộ ngôi nhà tâm linh

    Nói đến chùa Bảo Vương thì hầu hết các Phật tử, ai cũng biết đó là ngôi chùa của Hòa Thượng thượng Huyền hạ Tôn. Bởi vì, Hòa Thượng là một bậc lãnh đạo tinh thần tối cao thuộc GHPGVNTN Hải Ngoại tại UĐL – Tân Tây Lan. Hơn nữa, Ngài hiện là Tăng Giáo Trưởng Hội Đồng Giáo Phẩm, có niên cao lạp trưởng, vì thế, uy đức và tiếng tăm của Ngài lan rộng khắp trong nước Úc nói chung, cũng như tại Tiểu Bang Victoria nói riêng.

    Ngôi chùa của Hòa Thượng tuy không rộng lớn, nhưng cảnh vật nơi đây rất vắng vẻ yên tịnh, ít xe cộ qua lại ồn náo. Phía trước là một khoảng đất trống có dòng suối nhỏ chạy quanh. Trong sân chùa có tượng Đức Quán Thế Âm và nhiều cây kiểng xanh tươi, có cả cây cao bóng mát, tiếng chim hót, tiếng gió thổi hòa lẫn cùng tiếng mõ, lời kinh vang vọng nơi cảnh thiền môn nghiêm tịnh.

    Hòa Thượng sống đời bình dị, đơn giản, nhẹ nhàng, chuyên dịch thuật, nghiên cứu Kinh Tạng. Mặc dù cuộc sống trên thế gian này muôn màu, muôn vẻ, con người lúc nào cũng tất bật, bận rộn, luôn bị sáu trần chi phối, luôn hướng ngoại và tìm cầu. Hòa Thượng có biện tài khéo léo, rõ biết trong nhà có sẵn của báu nên không bận bịu, lo âu tìm kiếm, vẫn ung dung tự tại, đói ăn, khát uống, giống như Thiền sư Trần Nhân Tông có bài kệ như sau:

                                                          Ở đời vui Đạo hãy tùy duyên

                                                          Đói đến thì ăn, mệt nghỉ liền

                                                          Của báu trong nhà thôi tìm kiếm

                                                          Vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền.

   Quả đúng như vậy, Hòa Thượng có sẵn viên ngọc quí, nên trông Ngài an lạc giải thoát, đâu phải nhọc nhằn, tùy cơ ứng biến, tùy duyên hóa độ. Nơi nào cần thì Ngài đến, Phật sự thành thì Ngài đi, hằng thuận chúng sanh, từ bi cảm hóa.

   Hàng tuần nơi trú xứ của Hòa Thượng vẫn có sinh hoạt thời khóa tụng niệm, thuyết giảng giáo lý, cũng như trả lời những câu hỏi thắc mắc cho hàng Phật tử. Ngoài ra Hòa Thượng còn có biệt tài trị bệnh, nhứt là chứng bệnh thần kinh, hay bệnh tà ma quỉ nhập. Hòa Thượng chuyên trì thần chú Lăng Nghiêm và cho uống nước trong. Nhưng lạ thay, nhờ pháp Phật nhiệm mầu cộng với đạo cao, đức trọng của Hòa Thượng mà chữa được những căn bệnh hiểm nghèo.

 

Đúng là:

                                       “Đạo cao Long Hổ phục

                                         Đức trọng quỉ thần kính”

    Hòa thượng là một bậc Trưởng Lão có đạo cao, đức trọng hơn người. Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài nghiêm khắc, khó khăn, Ngài vẫn luôn thể hiện tinh thần bình đẳng và đức tính từ bi, hỷ xả, vẫn thường nhắc nhở hàng Tăng Ni trẻ chúng con tinh tấn trong việc tu hành.

   Đặc biệt, Hòa Thượng còn vui tánh hay kể những mẩu chuyện ngắn, tuy mang tính cách hài hước, nhưng rất thâm sâu, rất ý nghĩa. Như chuyện: “Hai chú ăn trộm”

   Hai cậu này chuyên môn đi đào khoai trộm, một đứa thì lo cặm cụi đào, không để ý đến ai, còn một đứa cũng đào nhưng có bản tính tham, đôi mắt liếc qua liếc lại, thấy không ai nhìn mình, liền lấy trộm khoai của bạn bỏ vào giỏ. Cứ như vậy, đến khi mỗi đứa đào xong hai nương khoai, sửa soạn đi về, một bên đầy giỏ còn một bên chỉ có một nửa. Thấy vậy đứa ít khoai hơn biết ngay là bạn mình lén trộm lấy bớt. Nó tức giận liền chỉ vào mặt bạn quát lớn: “Trong đời của tao ghét nhất là thứ ăn trộm”

   Hòa Thượng kể đến đây, cả Hội trường đều vỗ tay cười rộ. Ai dè, chính ăn trộm mà lại đi ghét ăn trộm.

    Câu chuyện vui, bình thường của thế gian, nhưng nó mang ý nghĩa rất sâu xa về triết lý của nhà Phật. Bởi vì, Phật pháp bao giờ cũng gần gũi với con người. Phật pháp không ở đâu xa, chính ngay tại thế gian này. Nó không lìa pháp thế gian: “Phật Pháp bất ly thế gian pháp”. Theo tinh thần đó, Lục Tổ Huệ Năng cũng có bài kệ như sau:

                                                          “Phật Pháp tại thế gian

                                                            Bất ly thế gian giác

                                                            Ly thế mích Bồ Đề

                                                            Do như tầm Thố giác”

    Cũng vậy, từ một mẩu chuyện nhỏ, chúng ta có thể nhận xét được một cậu bé tuy ăn trộm, nhưng vẫn có bản tánh ngay thẳng, trong sáng. Ý nói Phật tánh vẫn luôn có bên trong. Mỗi con người đều có chủng tử Phật. Như trong Kinh Đức Phật đã dạy: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Bởi do vô minh che lấp, nên bản tánh sáng suốt kia không hiển lộ được.

   Hòa Thượng đã khéo léo dùng mẩu chuyện thế gian, trong đó bao hàm ý nghĩa Phật Pháp rất cao sâu. Lời nói của Ngài như một tiếng chuông để cảnh tỉnh những người còn đang say giấc mộng.

   Ngày hôm nay, Hòa Thượng tuy tuổi cao, sức khỏe yếu, nhưng Ngài vẫn không ngừng nghỉ, luôn tùy cơ duyên của chúng sanh mà dùng mọi phương tiện để dìu dắt hóa độ. Nhờ ân đức của Hòa Thượng đã xướng lập ra những kỳ Bồ Tát hàng tháng, Ngài thường hay nhắc nhở, dạy bảo chúng con hãy sống đúng với tinh thần Giới Luật. Bởi vì, “Giới Luật là thọ mạng của Tăng Già - Giới Luật còn là Phật Pháp còn.”

    Hòa Thượng luôn thể hiện gương hạnh “Thường tinh tấn, Hằng nhẫn nhục” qua Thân giáo, Khẩu giáo của Ngài.

   Chúng con nguyện cố gắng, noi theo gương sáng của Hòa Thượng, tinh tấn tu hành, tranh đua cùng thọ mạng, đúng theo lời tựa Bài kệ tụng Giới:

                                                          Ngày nay đã qua

                                                          Mạng sống giảm dần

                                                          Như cá cạn nước

                                                          Nào có vui gì ...”

  Và sau cùng là chúng con thành kính nguyện cầu Tam Bảo gia hộ Hòa Thượng, tứ đại điều hòa, thân tâm an lạc, mãi là bóng cây Đại Thọ che mát chúng con cùng pháp giới chúng sanh.

 

                                                                          Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát

                                                                                                                    Thành Kính đảnh lễ

                                                                                                          TKN Thích Nữ Như Tuyết

                                                                                        Chùa Diệu Âm năm Bính Thân 2016

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4899)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
24/06/2011(Xem: 4909)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7235)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4243)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4879)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5650)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6254)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3867)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5305)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5366)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567