Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời dạy của Ôn

14/03/201617:54(Xem: 5607)
Lời dạy của Ôn

 
HT Huyen Ton (10)

Lời dạy của Ôn

 

Con xin nguyện đời đời kiếp kiếp quy y Phật,

Con xin nguyện đời đời kiếp kiếp quy y Pháp,

Con xin nguyện đời đời kiếp kiếp quy y Tăng,

Đó là lời khấn nguyện mỗi buổi sáng, hằng ngày của con khi thắp nhang trên bàn thờ Phật hay bất cứ nơi nào, lúc nào khi con đảnh lễ Phật. Những lời khấn nguyện này con đã được học từ lời dạy quý báu của Ôn.

Mười mấy năm nay, kể từ ngày vào Tu Viện Quảng Đức sinh hoạt, con được gặp Ôn trong các dịp lễ lạc, các công việc Phật sự của Chùa, của Giáo hội và phúc duyên cho con được nghe Ôn giảng Pháp ở các khóa An cư, các khóa Tu học Phật Pháp Úc Châu, các ngày thọ Bát quan trai v.v… Để rồi Ôn đã giúp con vun bồi thêm tư lương về Giáo Pháp của Phật, giúp con trau giồi kiến thức về nhân sinh quan của Phật giáo, giúp con nhận thức sâu sắc và chính chắn về cuộc sống, con người v..v…Và đặc biệt chị em và gia đình con hội đủ duyên lành nên đã được Ôn đến chứng minh, gia tâm chú nguyện cho Hương linh của Ba con được sớm thác sanh về cõi giới an lành khi Ba con qua đời, cũng như lễ chung thất của Ba con tại Tu Viện Quảng Đức. “Ơn sâu nghĩa nặng” là điều Ba Mạ con dạy anh chị em con từ nhỏ, câu thành ngữ này đã ăn sâu vào trong máu huyết của con cho nên con luôn khắc cốt ghi tâm những gì con nhận được  từ Ôn.

“Hoang mang giữa quãng đêm trường

Nhờ đèn Tam Bảo soi đường chúng sinh

Mênh mông bể khổ linh đinh

Nương thuyền Tam Bảo chúng sinh thoát nàn”

 

Con từng được nghe quý Thầy, quý Cô dạy, sanh ra đời làm người đã khó, gặp Phật Pháp còn khó hơn, nhưng con thiết nghĩ nghe được lời dạy và thực hành lời dạy đó cho đúng chánh pháp lại càng khó hơn nữa. Ôn chính là một trong những Vị Ân sư đã và đang dìu dắt, chỉ lối cho con trên con đường tu dưỡng đời sống tâm linh bản thân mình. Con thật sự không đủ vốn từ để diễn đạt cho hết những gì con biết về Ôn và cảm nhận về Ôn, con chỉ xin mượn lời ca để tỏ lòng thành kính tri ân, biết ơn sâu sắc đến Ôn:

“Lời Thầy như nắng ban mai

Cho con thức giấc mộng dài trần gian

Lời Thầy như gió trên ngàn

Cho con bay giữa vô vàn khổ đau

Thầy đi trước, con bước sau

Vang tiếng chánh pháp nguyện màu sắc son

Thầy đi trước, con bước sau

Vàng thiêng chánh pháp, sắc son một lòng”

Con nguyện luôn mãi mãi là người con Phật chân chính hiếu đạo như Ôn hằng trông mong nơi hàng Phật tử chúng con. Con xin nguyện cầu mười phương chư Phật từ bi gia hộ cho Ôn được thiệt nhiều sức khỏe để tiếp tục dẫn dắt chúng con trên con đường giải thoát và giác ngộ.

 

Melbourne Mùng 6 tháng 2 năm Bính Thân

Đệ tử Quảng Hương

(Xem bài cùng tác giả)

Ý kiến bạn đọc
14/03/201621:56
Khách
Con cung kính đảnh lễ Ngài . Biết Ngài hơn 30 năm nhưng vẫn thấy Ngài không thay đổi. Thẳng thắn, chân thật, và vẫn còn Nói Lập Tức khi thấy việc Bất Bình.... smile emoticon .... Con vẫn thích nhất là những buổi sáng sớm cùng Ngài tụng Chú Lăng Nghiêm đến đoạn Tán Phật, Ngài đánh trống nghe vang đến 33 tầng trời... Rồi những buổi Ngài lái xe đưa Thầy Trò đi ăn trưa tại nhà hàng chay 5 sao tại Melbourne, và Ngài nhất định đòi trả tiền. Những kỷ niệm một đời , một kiếp nhân sinh.... Con vẫn luôn ghi nhớ lời Ngài dặn: Cố Tu nhé....
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/06/2011(Xem: 5420)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6023)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3639)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5087)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5189)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12754)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11417)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 5418)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 13716)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 7487)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567