Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ Tri Ân Nhị Vị Trưởng Lão Hòa Thượng

15/04/201607:56(Xem: 6357)
Lễ Tri Ân Nhị Vị Trưởng Lão Hòa Thượng
khanhtue-htnhuhue (104)

Lễ Tri Ân Nhị vị Trưởng lão
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn & Hòa Thượng Thích Như Huệ
 

 

Như chúng ta đã biết, Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan sẽ tổ chức Lễ Tri Ân nhị vị Trưởng lão, Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng Thích Huyền Tôn và Trưởng lão Hòa Thượng Chứng Minh Đạo Sư Thích Như Huệ, được đưa ra thành một mục trong chương trình nghị sự của phiên họp Hội Đồng Điều Hành ngày 31-12-2015 tại Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ thứ 15, tất cả Chư Tôn đều đồng thuận, hoan hỷ, tán thành, nên làm, phải làm đã nói lên sự trân trọng, nghiêm túc và trọn vẹn ý nghĩa Lễ Tri Ân này.

 

Tứ Trọng Ân, một bài pháp hệ trọng chính Đức Phật đã dạy, đó là: Ân Cha Mẹ, Ân Tam Bảo, Ân Quốc gia Dân tộc, Ân Thầy bạn Chúng sanh. Bài pháp Tứ Trọng Ân xuyên suốt hành trình 2,600 năm lịch sử hoằng hóa lợi sanh của Phật Giáo, băng qua mọi thăng trầm hưng phế, vượt qua mọi góc độ không gian thời gian, không phân chia chủng tộc màu da, không cách ngăn biên cương lãnh thổ. Tứ Trọng Ân luôn được truyền trao, nhắc nhở, xưng tụng, tuyên dương, không những một lần hai lần mà đã muôn ngàn vạn ức lần, không những một năm hai năm mà đã 2,600 năm, nhất là mỗi Mùa Vu Lan Thắng Hội, nơi nơi tán tụng, xứ xứ ngưỡng tôn. Mỗi thời Nghi Lễ, mở đầu Kỳ Nguyện, kết thúc Phục Nguyện, vẫn thường nghe xướng rất tôn nghiêm: "Thượng, báo Tứ Trọng Ân". Hay trước khi đi vào trì tụng các Kinh điển Đại Thừa đều khởi đầu lời chân thành khánh tán: "Trên, đền Bốn Ơn Nặng".

 

Chữ "Ân" trong Phật Giáo, diễn rộng ra sẽ mênh mông vô tận, nhận thâm sâu sẽ rộng lớn vô cùng. Gần gũi nhất, thân thiết nhất, mỗi Chư Tăng Ni, mỗi vị Khai sơn Thạch trụ, đương vi hay kế thế Trụ Trì, đều mang ân rất lớn của đàn na tín thí, của Phật tử Đệ tử Tín đồ, của bá gia bá tánh gần xa muôn phương tám hướng.

 

Trong phạm vi Úc Châu, trong Giáo Hội chúng ta, với Trưởng lão Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng, Ngài năm nay đã 89 niên kỷ, gần 70 Hạ Lạp; với Trưởng lão Hòa Thượng Chứng Minh Đạo Sư, Ngài cũng 84 tuổi hạc, gần 60 Hạ Lạp. Thưa rằng, ngoài Hòa Thượng đương vi Hội Chủ, và 2 Ni Trưởng thuộc Ni Bộ, tất cả Chư Sơn còn lại, nói về tuổi đời có lẽ đều là hàng con hàng cháu của hai Ngài, nói về ngày vào chùa tu học hay năm tháng xuất gia thọ giới, dù có thể không là đệ tử học trò nhưng chắc chắn là hàng hậu học hơi gần hoặc khá xa của nhị vị.

 

Bóng dáng Phật Giáo Việt Nam tại Úc Châu đã hiện hữu vào đầu thập niên 1980 chính là sự hiện diện của những vị Tăng sĩ vượt biên tỵ nạn định cư đầu tiên hội tụ trên quốc độ này. Hai Ngài cùng các vị đã tiếp tục sự khởi đầu, sáng lập, khai sơn, cưu mang, gánh vác, phụng sự, dấn thân. Theo thời gian, nhiều Chư Tăng Ni đến sau, đã cùng phối hợp nhịp nhàng, cùng gắn bó keo sơn, miệt mài tận tụy, đóng góp hy sinh, bảo tồn phát huy hơn 15 năm kinh qua danh xưng Tổng Hội, Giáo Hội Thống Nhất, và Giáo Hội Thống Nhất Hải Ngoại 16 năm nay.

 

Từng vùng trời, từng vùng đất trên khắp châu lục Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan này, khi thì bằng hàng không, khi thì bằng đường bộ, biết bao lần hai Ngài đã đến, biết bao lần hai Ngài đã đi. Hơn 30 năm, biết bao nhiêu Trụ xứ, biết bao nhiêu Đạo tràng; nào Khóa học, Khóa tu, Huấn luyện; nào An cư, Hiệp kỵ, Tưởng niệm, Tri ân; nào Đặt đá, Lạc thành, Khánh thành; nào Chẩn tế, Thủy lục Đàn tràng siêu linh bạt độ, ... cho đến các Thời khóa Công phu, Thiền tọa, Thiền hành, Trai đường, Hội họp, Cầu nguyện, Cứu trợ, Từ thiện,... vân vân và vân vân, khi nào hai Ngài cũng có mặt và lúc nào hai Ngài cũng hiện diện: Chứng minh, Chủ lễ, Niêm hương, ban Huấn từ, Đạo từ, Khai thị, đi đầu, đứng đầu, ngồi đầu, đường đường trang nghiêm như thị. Hơn 30 năm, không gian còn ghi, thời gian còn giữ. Dẫu biết rằng "Nhạn quá trường không" nhưng không gian lưu giữ cũng tùy! "Ảnh trầm hàn thủy", nhưng nước kia trân quý có sao!

 

Hơn 30 năm trước, nơi nào cần hai Ngài cũng đến, nơi nào thỉnh hai Ngài cũng đi, đi không biết mỏi, đến không nặng lao. Hơn 30 năm sau, cố nhiên, hai Ngài vẫn đến vẫn đi, vẫn quang lâm như hai đại thụ, vẫn chấn tích nhưng phải cố gắng, phải nhờ cây gậy đỡ châu thân. Một vị gần 90, một vị gần 8 rưỡi, Đại lão Tăng già, Trưởng lão Thiền gia. Ba vạn sáu, cửu thập gần tròn. Kiếp nhân sinh, bát thập đã dư. Sắt thép còn mòn, sỏi đá còn tiêu, huống chi tấm thân tứ đại giả huyễn vô thường!

 

Hơn 30 năm, Chư Tôn Đức Tăng Ni chúng ta cùng hành hoạt trên con thuyền Giáo Hội, khi sóng phủ tơi bời, khi yên ả thùy dương, khi an nhiên tự tại, khi lửa tấp vô chừng, cay đắng cùng chia, ngọt bùi cùng nhận, ân nghĩa nói sao cho hết, keo sơn nói sao cho cùng. Ôi, cao cả thay tình cốt nhục linh sơn! Ôi, trân quý thay tình Pháp lữ sâu dày!

 

Hơn 30 năm, gần gũi hai Ngài, đã quá tương thân. Hơn 30 năm, tôn trọng hai Ngài, chính là tương kính. Nhị vị Trưởng lão lớn nhất trong Giáo Hội, giữ cương vị cao nhất trong Giáo Hội, hy sinh cống hiến phụng nguyện thời gian lâu nhất trong Giáo Hội, xứng đáng để toàn Giáo Hội tri ân tán dương hôm nay, lưu lại nét son cao quý đầu tiên cùng những nét son kế tiếp trong lịch sử Giáo Hội tại Úc Châu, và truyền lưu hậu thế.

 

Nhân Lễ Tri Ân của Giáo Hội, chân thành xin viết những lời thô thiển dâng lên nhị vị Trưởng lão, kính chúc hai Ngài pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu.

 

Khể thủ

Chùa A Di Đà

Sydney ngày 14-4-2016

Tỳ kheo Thích Nguyên Trực




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7131)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4189)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4823)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5575)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6182)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3803)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5233)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5313)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12925)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11485)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567