Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời tri ân của Hội Đồng Điều Hành

22/04/201611:35(Xem: 5592)
Lời tri ân của Hội Đồng Điều Hành

HT Nhu Hue

 

Lời tri ân

Của Hội Đồng Điều Hành

đối với Trưởng lão Hòa Thượng Thích Như Huệ,

Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội

 

Nam Mô Việt Nam Khai sơn truyền giáo, truyền giới lịch đại chư vị Tổ sư.

Kính bạch Hòa Thượng Thích Như Huệ Chứng Minh Đạo Sư của GHPGVNTN Hải Ngoại tại UĐL/TTL

Hôm nay Chủ Nhật ngày 1 tháng 5 năm 2016 nhằm ngày 25 tháng 3 năm Bính Thân, Hội Đồng Điều Hành, cùng toàn thể Tăng Ni và đại diện Phật tử trong Giáo Hội câu hội về Tổ đình Pháp Hoa Nam Úc mà Hòa Thượng đương là Phương Trượng và cũng là người khai sơn ngôi phạm vũ này hơn ba thập niên qua. Để tiếp tục sứ mạng hoằng pháp lợi sanh là sự nghiệp của hàng chúng trung tôn, Ngài là một sứ giả Như Lai nhiệt thành, trung kiên nhất của ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam từ quốc nội đến hải ngoại suốt chiều dài 70 năm, với nhiều sự đóng góp tích cực cho nền Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (PGVNTN) và nhất là GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan trong gần hai thập niên đến năm 2015.

Sau khi thọ Cụ túc giới năm 1957, Hòa Thượng được Giáo Hội Tăng Già Quảng Nam, Đà Nẵng mời về Trụ Trì chùa Cẩm Hà tại Hội An – QN, cũng như tham gia Giảng sư đoàn của Tổng Hội Phật Giáo Trung phần VN Tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang do Hòa Thượng Thích Trí Thủ là Trưởng ban.  HT cũng Trụ Trì các chùa Cầu Đất, Tỉnh Tuyên Đức (1959), chùa Phật Giáo Tỉnh Hội Kon Tum (1961), chùa Pháp Hoa – Nam Úc, từ 1982 đến 2003.

Về hoằng pháp: Hòa Thượng là Giảng sư hàng đầu của PG tỉnh Quảng Nam, Ngài còn tham gia Giảng sư đoàn của Tổng Hội PG Trung phần Việt Nam tỉnh Khánh Hòa, được mời diễn giảng khắp các tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Tuyên Đức, Kon Tum, Lâm Đồng … Khi ra ngoại quốc, Hòa Thượng giữ vai trò Vụ Trưởng Tổng Vụ hoằng pháp của Tổng Hội PGVN tại Úc từ 1983 đến 1987; khi Tổng Hội chuyển hướng thành lập GHPGVNTN năm 1987,  Hòa Thượng cũng được Đại hội tín nhiệm nhận lãnh Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp trong hai nhiệm kỳ (1987-1994), và Ngài được mời đi hoằng pháp tại các nước như Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Đức, Tân Tây Lan v.v…

Về pháp nạn 1963, Ngài là Chủ Tịch Ủy Ban tranh đấu bảo vệ Phật Giáo tỉnh Quảng Nam. Do tài lãnh đạo, Ngài đã vận động Tăng Ni và Phật tử hy sinh đóng góp cho phong trào tranh đấu của Giáo Hội PGVN, chống bất công, áp bức và kỳ thị tôn giáo dưới chế độ Ngô Đình Diệm, đến khi thành công viên mãn.

Về Giáo dục: Ngài là Đặc ủy giáo dục kiêm Giám đốc các trường Trung, Tiểu học Bồ Đề tại Hội An, Điện Bàn, Đức Dục, Duy Xuyên…tỉnh Quảng Nam. Hòa Thượng cũng là sáng lập viên xây trường Trung học Bồ Đề, Hội An. Ngài cũng vận động cùng Hòa Thượng Như Vạn trùng tu Tổ đình Phước Lâm được hoàn thành tốt đẹp như trong hiện tại. Ngoài ra, Hòa Thượng cũng vận động Phật tử người Việt hải ngoại đóng góp nhiệt thành đại trùng tu Tổ đình Chúc Thánh - Hội An, năm 2006. Nay là ngôi phạm vũ huy hoàng xứng đáng nơi chốn Tổ khai sơn của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.

Về các Đại giới đàn: HT làm Yết Ma A Xà Lê các Đại giới Đàn Hương Tích (1994), Nến Ngọc (1996) ở Làng Mai – Pháp Quốc , Đại giới đàn Hương Sơn, Sydney (1998), Đại giới đàn Liễu Không, Perth (2000), Đại giới đàn Cam Lồ Thủy tại Làng Mai, Pháp quốc (2014); và Đàn đầu Hòa Thượng Đại giới đàn Khánh Anh tại Paris, Pháp Quốc (2015).

Từ Hội Trưởng đến Hội Chủ: Năm 1964 tức 52 năm trước, tại Đại hội bầu Ban Trị Sự tỉnh Quảng Nam, Hòa Thượng được công cử giữ chức Hội Trưởng Tỉnh Hội Phật Giáo Quảng Nam; Hội Trưởng Hội PGVN tại Nam Úc từ năm 1986, Phó Viện Trưởng Viện Hoằng Đạo (1987), Giáo Hội Trưởng GHPGVNTN Nam Úc từ năm 1988 đến nay. Sự kiện hằn sâu đáng ghi nhớ nhất là PGVN tại Úc lật sang trang từ 1995, vì nội bộ lục đục, chư Tôn Đức Tăng Ni trong Giáo Hội và đa số thành viên các cơ sở tự viện lúc đó ẩn nhẫn chờ đợi mãi cho tới cuối năm 1999, một Giáo Hội thứ hai tại Úc được hình thành tại Chùa Pháp Bảo là GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan, Hòa Thượng được Đại hội cung thỉnh trong vai trò Hội Chủ lãnh đạo Giáo Hội suốt 4 nhiệm kỳ từ 1999 đến năm 2015.

Có thể nói Giáo chỉ số 9 của Viện Hóa Đạo từ quốc nội và Thông Tư số 31 của Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo tại Hoa Kỳ, giải thích thi hành Giáo chỉ 9, như trận sóng thần cuốn hút và suýt nhận chìm các Giáo Hội PGVNTN tại Hải Ngoại. Cũng nhờ thần lực Tam Bảo và Chư Tổ Sư gia hộ, nên chính nhờ Hòa Thượng và Cố HT Minh Tâm mà GHPGVNTN liên châu thành hình năm 2009 để bốn Giáo Hội tại Âu Châu, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại và Úc Châu được tồn tại, và giữ vững thế đứng của mình trước sau như một, đúng như lời mở đầu của Hiến Chương:

“Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan không đặt sự tồn tại của mình trong vị thế cá biệt, mà đặt mình trong sự tồn tại của dân tộc và nhân loại”.

Kính bạch Hòa Thượng, vai trò Hội Chủ không đơn giản, phải là người có đủ nhuệ khí và bản lãnh mới điều hành việc đối nội và đối ngoại của tổ chức được trôi chảy để Giáo Hội được yên bình và phát triển. Ngược lại, người chủ soái phải chịu mọi hậu quả khôn lường trước Giáo Hội và lịch sử. Trong bốn nhiệm kỳ là 16 năm qua, sóng gió không phải ít, chướng duyên cũng khá nhiều, như ngòi kích hoạt chờ dịp phát tác… Nhưng tất cả rồi cũng xếp vế, lui tan trước sức mạnh của đức chúng như hải, dưới sự lãnh đạo nhịp nhàng của Hòa Thượng. Nhờ vào tấm lòng hy sinh vì đạo, đức nhẫn nại và tài nhiếp chúng của nhà lãnh đạo, của bậc Thầy sáng suốt mà chư Pháp lữ, huynh đệ, cùng các tự viện thành viên của Giáo Hội được sống chung hòa hài trong tình Linh Sơn cốt nhục.

Khi hay tin vóc thể của Hòa Thượng khiếm an, Chư Tôn đức Tăng Ni và hàng Phật tử rất lo lắng, trực tiếp đến vấn an Ngài, hoặc điện thoại ân cần thăm hỏi hết lòng; cũng như Giáo Hội ra Thông Tư đến các Tự viện thành viên để tổ chức những lễ cầu an cho Ngài Trưởng lão sớm được bình phục.

Cụ thể hơn hết như trong khung cảnh trang trọng theo đúng nghi cách Thiền gia của giờ phút thanh tịnh tâm hôm nay, toàn thể Giáo Hội hướng về đức Trưởng lão Chứng Minh Đạo Sư bày tỏ tấm lòng tri ân với món tặng phẩm thanh nhẹ gói ghém qua tập kỷ yếu lưu niệm, để Hòa Thượng vui trong những ngày dưỡng bịnh.

Kính mong Ngài nhận nơi đây đạo tình gắn bó của chư Pháp lữ, huynh đệ, đệ tử của Hòa Thượng để tri tạ ân đức Ngài đã dày công hy hiến cho GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tân Lan và tiền đồ PGVN nói chung trong hơn bảy thập niên qua. Nguyện cầu Phật lực mười phương, chư vị Bồ Tát thiện thần và lịch đại chư vị Tổ Sư thùy từ gia hộ Hòa Thượng tứ đại điều hòa, đạo thọ miên trường và đạo quả chóng viên thành.

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát.

 

TM.Hội Đồng Điều Hành

Hội Chủ,

Hòa Thượng Thích Bảo Lạc



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7155)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4203)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5593)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3816)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5244)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5320)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12959)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11528)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567