Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài lời mộc mạc kính dâng Thầy (bài viết của HT Thích Như Điển)

19/02/201618:48(Xem: 6586)
Vài lời mộc mạc kính dâng Thầy (bài viết của HT Thích Như Điển)


htnhuhue
VÀI LỜI MỘC MẠC KÍNH DÂNG THẦY

Thích Như Điển


Vào giữa năm 1982 tôi nhận được một cuộc gọi viễn liên từ Nhật Bản sang Đức. Lúc ấy tôi đã dọn Niệm Phật Đường Viên Giác về thuê tiếp tục tại đường Eichelkampstr, thuộc thành phố Hannover, Tây Đức. Tôi quá đổi vui mừng, vì vị gọi ở đầu giây bên kia chính là Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ, Phương Trượng chùa Pháp Hoa tại Nam Úc bây giờ. Hơn 34 năm về trước, Ngài ở độ tuổi 50 và tôi vẫn gọi bằng Thầy như khi còn ở trong nước từ năm 1964 đến năm 1972, trước khi tôi rời Việt Nam đi du học sang Nhật Bản.

Thầy bảo rằng: “Mới được tàu Na Uy vớt và đưa về Nhật ở tạm và muốn sang Đức định cư”. Tôi thưa rằng: “Bạch Thầy, không nên”. Lúc đó chắc Thầy không vui mấy và tôi giải thích những lý do chính đáng sau đây thì Thầy hoan hỷ. Việc thứ nhất là xứ Đức lạnh lắm, có nhiều mùa Đông nhiệt độ xuống dưới không độ trong nhiều tháng; thứ hai là tiếng Đức rất khó, với tuổi của Thầy, chắc là Thầy sẽ không thể kham nổi đâu. Thầy hỏi:  “Vậy thì bây giờ nên đi đâu?” Tôi thưa rằng: “Bạch Thầy, Thầy nên đi Úc. Vì ở Úc có nắng ấm quanh năm, khí hậu không khác Việt Nam mình bao nhiêu, chỉ có 4 mùa thay đổi không giống như quê hương mình, nhưng ở đó có cộng đồng người Việt rất đông và tại Nam Úc hiện đang thiếu vị lãnh đạo tinh thần, nếu Thầy thuận thì con sẽ nói với Đạo Hữu Võ Văn Tươi, Hội trưởng Hội Phật Giáo tại Nam Úc sẽ làm giấy bão lãnh Thầy sang Úc, giống như thủ tục của Thầy Bảo Lạc, mà Hội Phật Giáo Việt Nam tại New South Wales đã bảo lãnh cách đây 1 năm về trước và hiện Thầy Bảo Lạc đang Trụ Trì chùa Pháp Bảo tại Sydney”.

Thầy ừ! và sau cuộc gọi ấy, tôi vẫn liên lạc thường xuyên với Thầy tại Nhật cũng như tại Úc với Đạo Hữu Võ Văn Tươi và với 300 chữ ký thỉnh nguyện của Phật tử tại Nam Úc, Chính phủ Úc đã thuận cho Thầy và cấp Visa vào Úc chỉ chừng 3 tháng sau đó.Tôi thở phào nhẹ nhõm, vì đã làm xong được nhiều bổn phận mà Phật tử Việt Nam tại Nam Úc đã cậy nhờ. Đó là làm sao thỉnh dùm cho Hội tại đây một vị lãnh đạo tinh thần. Nay thì mọi việc đã xong, nên tôi rất an tâm, vì đã biết Hòa Thượng từ Việt Nam, nên không có gì để phải lo lắng cả. Ở Việt Nam, Ngài đã là Giảng Sư của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Nam, Ngài cũng là vị Thầy Giám Đốc trường Trung Học Bồ Đề Hội An thuở tôi còn học đệ ngũ và đệ tứ, niên khóa 1966-1968 (xin đọc thêm tác phẩm: Nước Úc trong tâm tôi, do Tự Viện Pháp Bảo và Phật tử chùa Pháp Bảo bảo trợ xuất bản trong năm 2016 nầy).


ht nhu dien-ht nhu hue
HT Như Huệ  (bên phải) và học trò của Ngài, HT Như Điển




Thầy đến Úc, Thầy đã gầy dựng được chùa Pháp Hoa tại Nam Úc, nay trở thành Tổ Đình của Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Úc Châu. Thầy cũng là người sáng lập ra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan. Thầy cũng đã làm Hội Chủ Giáo Hội nầy đến 4 nhiệm kỳ, cả thảy 16 năm. Hơn 13 năm về trước (2003)Thầy đã trở về ngôi Phương Trượng và giao việc điều hành cũng như Trụ trì chùa Pháp Hoa cho Thầy Thích Viên Trí và cách đây chừng một năm, Thầy đã trở thành Vị Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan. Nay ở tuổi 84 (Ngài sinh năm 1933) và 8 tuổi đã vào chùa, 15 tuổi xuất gia chính thức tại Tổ Đình Chúc Thánh, Hội An, Quảng Nam. Nay Giáo Hội tại Úc Châu dự định làm lễ “Tri Ân và Tán Thán Công Đức” của nhị vị Đại Lão Hòa Thượng, nên muốn các chúng đệ tử xuất gia, tại gia và chư Tăng Ni thành viên của Giáo Hội viết bài để truy tán công đức của Quý Ngài. Con, một người học trò ở xa xôi, cách hơn nửa vòng trái đất và cũng đã nhận được ân giáo dưỡng của Thầy hơn nửa thế kỷ về trước, nên cũng có đôi lời mộc mạc dâng lên Thầy nhân việc Giáo Hội Úc Châu muốn thực hiện hai tập kỷ yếu cho nhị vị Đại Lão Hòa Thượng. Con nghĩ điều ấy cũng rất hay, vì khi các Ngài còn tại thế, các Ngài còn xem được những Pháp Lữ hay Đệ Tử của mình viết và nghĩ gì về mình, còn nếu để chờ cho các Ngài theo Phật về Tây rồi, lúc ấy cũng làm Kỷ Yếu để tưởng niệm các Ngài, nhưng các Ngài đâu có  còn đọc được nữa. Điều nầy cũng có nghĩa là người ta có thể chứng Niết Bàn ngay trong lúc còn sống, chứ không nhứt thiết phải  là sau khi hơi thở cuối cùng mới chứng được trạng thái Vô Sanh nầy. Cũng như vậy, Cực Lạc là chứng nhập ngay nơi câu niệm Phật, chứ không phải lúc lâm chung rồi, lúc ấy mới trực vãng Lạc Bang.

Con rất tán đồng việc thể hiện nầy của Giáo Hội Úc Châu, nên con sẵn sàng viết nên những lời mộc mạc nầy, như một người nông dân xứ Quảng để kính dâng lên Thầy và người nông dân ấy không bao giờ dám quên ân nghĩa của Thầy đã tạo ra cơ hội vẻ vang cho con sau nầy trên con đường Tu cũng như Học. Đó là những phần thưởng quý giá hạng nhất của lớp đệ tứ trường Trung Học Bồ Đề Hội An niên khóa 1967-1968, phần thưởng hạnh kiểm toàn trường Trung Học Bồ Đề và phần thưởng tối ưu về học lực của trường, mà lúc đó Thầy là vị Giám Đốc. Thầy phải thuê dùm cho Con một chiếc xe xích lô đạp, con mới có thể chở hết phần thưởng về chùa Viên Giác Hội An vào cuối niên học ấy. Bây giờ mỗi lần con dạy cho đệ tử của mình thường hay bảo rằng: “Sự học nó không làm cho người ta giải thoát được, nhưng muốn mở cánh cửa giải thoát kia, thì không thể thiếu sự Tu và sự Học được”.  Con nghĩ rằng lời nầy sẽ không thừa qua với thời gian và năm tháng, nhưng nếu con có được thành quả nào của ngày hôm nay, thì đều nhờ vào Sư Phụ con, Cố Hòa Thượng Thích Long Trí, Thầy, Thầy Như Vạn và Thầy Chơn Phát đã trợ duyên cho con từ thuở ấu thời. Ân nghĩa ấy thật là nghìn trùng mà con chẳng bao giờ có thể quên được.

 

Thầy nhìn lại những người học trò, đệ tử của Thầy, chắc hẳn Thầy sẽ vui, khi những người nầy luôn nhớ ghi lời Thầy dạy. Đó là truyền thống, đấy là ân huệ, đó là những thâm ân giáo dưỡng của Thầy. Rồi một mai đây Thầy cũng sẽ theo Phật, theo Tổ về Tây, nhưng Thầy sẽ an lòng với những Pháp lữ trong Giáo Hội và những người đệ tử, học trò đã thọ nhận ân của Thầy, họ sẽ không bao giờ quên cả. Câu “Ẩm thủy tư nguyên” vẫn luôn có giá trị cho bao đời là vậy.

 

Năm 2013 tổ chức Khánh Tuế Thầy 80 tuổi tại chùa Pháp Hoa Nam Úc, chắc Thầy cũng đã nhìn thấy tận mắt, nghe tận tai những lời chúc tụng của chúng con và nay một lần nữa chúng con xin nguyện cầu Thầy sống đến trăm năm trên trần thế nầy để làm lợi lạc cho quần sanh và nhất là những ai cần đến Đức Từ Dung của Thầy luôn hằng che chở.

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát tác đại chứng minh.

Viết xong vào một sáng chớm Xuân (15.2.2016) tại Tu Viện Viên Đức, Ravensburg, Đức Quốc để kính dâng lên Thầy.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7150)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4195)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5591)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3811)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5243)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5318)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12958)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11522)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567